logo-dich-vu-luattq

Ví dụ về hợp đồng mua bán hàng hóa

Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa

Hợp đồng là sự thỏa thuận thống nhất ý chí nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể. Hợp đồng là hình thức pháp lý chủ yếu để ghi nhận việc thiết lập các quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự trong nền kinh tế thị trường.

Sự ra đời của Luật Thương mại 2005 là sự khởi đầu hình thành một khái niệm mới trong thực tiễn kinh doanh – khái niệm “hợp đồng thương mại”. Trong khoa học pháp lý, cũng có ý kiến cho rằng không nên sử dụng khái niệm này do lo ngại dẫn đến hệ quả không cần thiết, đó là sự mất công tìm kiếm điểm khác biệt giữa hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự. Song trong thực tiễn kinh doanh hiện nay, khái niệm này vẫn được sử dụng khá phổ biến với ý nghĩa là “hợp đồng trong hoạt động thương mại”. Có thể thấy rằng, khái niệm “hợp đồng thương mại” vẫn tồn tại trong đời sống kinh tế, pháp lý với ý nghĩa là hợp đồng hình thành trong lĩnh vực thương mại.

Xem thêm: Ví dụ về hợp đồng mua bán hàng hóa

Hợp đồng mua bán hàng hóa là một trong những loại hợp đồng thương mại. Về lý luận, hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự và hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại cũng là một loại hợp đồng mua bán tài sản. Tuy nhiên, hợp đồng thương mại nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại nói riêng có những đặc thù riêng biệt khác với hợp đồng dân sự và hợp đồng mua bán tài sản. Các văn bản pháp luật hiện hành ở Việt Nam không định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa nhưng dựa trên khái niệm chung về hợp đồng dân sự, hợp đồng mua bán tài sản và khái niệm mua bán hàng hóa quy định tại Luật Thương mại năm 2005 có thể đưa ra khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại như sau:

“Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”.

Cách hiểu về hợp đồng mua bán hàng như trên cũng đã có những điểm tương đồng với một số nước khác. Ví dụ: Theo luật của Pháp, hợp đồng mua bán là một thỏa thuận theo đó một bên có nghĩa vụ giao vật và bên kia có nghĩa vụ trả tiền cho vật ấy hoặc, luật của Anh quy định hợp đồng mua bán là hợp đồng theo đó người bán chuyển giao hoặc đồng ý chuyển giao quyền sở hữu hàng cho người mua và đổi lại số tiền thỏa đáng.

Tựu chung lại có thể hiểu hợp đồng mua bán hàng hóa là việc bên bán chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán.

Đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa

Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất giống như hợp đồng mua bán tài sản, đều là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập quyền nghĩa vụ pháp lý giữa các bên, cụ thể là: bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản/hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán và có quyền sở hữu đối với tài sản/hàng hóa đã mua.

Ngoài những đặc điểm chung giống như hợp đồng mua bán tài sản thì hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại còn được nhận diện qua những dấu hiệu riêng sau:

Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là thương nhân

Chủ thể hợp đồng là các bên giao kết và thực hiện hợp đồng. Một bên chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là thương nhân. Chủ thể còn lại của hợp đồng mua bán hàng hóa là thương nhân hoặc có thể không phải là thương nhân. Thương nhân bao gồm: tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Về mặt thủ tục, tổ chức kinh tế, cá nhân sau khi thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp/đăng ký hợp tác xã/đăng ký hộ kinh doanh thì trở thành thương nhân và có quyền tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.

Đặc điểm chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu phải là thương nhân là điểm khác biệt với chủ thể hợp đồng mua bán tài sản. Chủ thể hợp đồng mua bán tài sản là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hộ gia đình; tổ hợp tác; pháp nhân thương mại, pháp nhân phi thương mại (cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức kinh tế; tổ chức xã hội – nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác).

Lý do có sự khác biệt này là vì để thực hiện hoạt động thương mại, chủ thể cần đáp ứng những yêu cầu nhất định về vốn, về tư cách pháp lý, về một số yêu cầu điều kiện mang tính nghề nghiệp để triển khai hoạt động thương mại thường xuyên, độc lập trên thị trường. Xuất phát từ yêu cầu điều kiện chủ thể của hoạt động thương mại nên các bên chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là thương nhân hoặc trong một số trường hợp chỉ cần bên bán là thương nhân (vì bên bán thực hiện hoạt động bán hàng mang tính chất nghề nghiệp).

Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa

Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, Luật Thương mại năm 2005 chỉ điều chỉnh các quan hệ mua bán hàng hoá mà hàng hóa đó là:

– Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai,

– Những vật gắn liền với đất đai. 5 Đặc điểm đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa sẽ phân biệt hợp đồng mua bán hàng hóa với hợp đồng cung ứng dịch vụ, là một công việc mà bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện theo yêu cầu của bên sử dụng dịch vụ. Hàng hóa là sản phẩm hữu hình, có tính lưu thông, có tính thương mại và được chuyển giao quyền sở hữu khi thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa. Khác với hàng hóa, dịch vụ là sản phẩm vô hình, không thể cầm nắm được, không thể xác lập quyền sở hữu với dịch vụ, không lưu kho lưu bãi được.

Qua quy định về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa tại Luật Thương mại năm 2005, cần lưu ý một số nội dung sau:

– So với Luật Thương mại năm 1997, khái niệm hàng hóa được mở rộng hơn đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới

Ở Việt Nam, khái niệm hàng hóa được quy định trong Luật Thương mại năm 1997 và Luật Thương mại năm 2005 có sự khác nhau. Khoản 3 Điều 5 Luật Thương mại năm 1997 quy định: Hàng hoá gồm máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua, bán. Khái niệm hàng hóa tại Luật Thương mại năm 2005 không chỉ bao gồm các loại hàng hóa hữu hình có ở thời điểm giao kết hợp đồng mà còn có cả hàng hóa sẽ hình thành trong tương lai. Việc mở rộng khái niệm hàng hóa có ý nghĩa hơn khi Việt Nam mở cửa thị trường kinh tế với các quốc gia trong khu vực và trên phạm vi toàn cầu.

– Trong mối tương quan so sánh với đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản có thể nhận thấy đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản rộng hơn so với đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa.

Tìm hiểu thêm: Hợp đồng chính và hợp đồng phụ

Theo Điều 431 Bộ luật Dân sự năm 2015, đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản là tài sản được quy định tại Bộ luật Dân sự. Khái niệm tài sản tại Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Quyền tài sản phải được xác định thỏa thuận cụ thể về loại quyền tài sản và bên bán phải có các giấy tờ hoặc bằng chứng khác chứng minh quyền tài sản đó thuộc sở hữu của mình.

Có ba loại quyền tài sản: Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp; quyền đối với giống cây trồng; quyền đòi nợ; quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm; quyền tài sản đối với phần góp vốn trong doanh nghiệp; quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và các quyền tài sản khác (thuộc sở hữu của bên bán);

+ Quyền sử dụng đất;

+ Quyền khai thác tài nguyên.

Trong khi đó, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa (theo quy định của Luật Thương mại năm 2015) chỉ là động sản và những vật gắn liền với đất đai. Như vậy, các loại tài sản là quyền tài sản như giấy tờ có giá (cổ phiếu, trái phiếu) không được đưa vào phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005. Những quan hệ mua bán cổ phiếu, trái phiếu giữa các thương nhân với nhau có bản chất giống như quan hệ mua bán hàng hóa trong thương mại nhưng do cách giải thích về khái niệm hàng hóa nên những giao dịch mua bán cổ phiếu, trái phiếu không chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005.

– Hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại có thể hướng tới việc giao và nhận hàng hóa sẽ hình thành ở một thời điểm trong tương lai. Hàng hóa trong các giao dịch này không phải là những hàng hóa thương mại thông thường mà phải là những loại hàng hóa nằm trong danh mục hàng hóa giao dịch tại Sở giao dịch hàng hóa do Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) quy định. Các quy định về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa tại các Điều 64 đến Điều 66, Điều 68 Luật Thương mại năm 2005 đã minh chứng cho phân tích trên.

– Quy định của Luật Thương mại năm 2005 cũng tương đồng với luật của Anh. Theo đó, luật của Anh phân biệt hai loại hợp đồng là hợp đồng bán hàng và hợp đồng thỏa thuận bán hàng. Hợp đồng bán hàng (Sale of Goods) là hợp đồng theo đó quyền sở hữu hàng hóa được chuyển từ người bán sang cho người mua ngay khi ký kết hợp đồng. Hợp đồng thỏa thuận bán hàng (Agreement to Sale of Goods) là hợp đồng mà việc chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa được thực hiện trong tương lai hoặc phải hoàn thành một số điều kiện nhất định.

Mục đích chủ yếu của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa là sinh lợi

Mục đích của chủ thể hợp đồng thường được xác định thông qua tư cách pháp lý của chủ thể khi giao kết hợp đồng. Do chủ thể mua bán hàng hóa trong thương mại chỉ cần bên bán phải là thương nhân nên lợi nhuận có thể chỉ là mục đích của một bên chủ thể hợp đồng. Xem xét trong tổng thể hợp đồng mua bán hàng hóa thì mục đích chủ yếu mà các chủ thể hướng đến là lợi nhuận và chủ thể chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hóa là thương nhân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, một bên của hợp đồng mua bán hàng hóa không có mục đích sinh lời.

Mục đích giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa được xem xét tùy từng trường hợp cụ thể:

Trường hợp thứ nhất: hợp đồng mua bán hàng hóa giữa thương nhân với thương nhân cùng hướng đến mục tiêu lợi nhuận.

Ví dụ: Công ty C mua sản phẩm thủ công mỹ nghệ của công ty D sản xuất để xuất khẩu sang thị trường châu Âu. Mục đính của công ty D là sản xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ để bán kiếm lời. Mục đích của công ty C là mua sản phẩm thủ công mỹ nghệ để bán lại kiếm lời.

Trường hợp thứ hai: hợp đồng mua bán hàng hóa giữa thương nhân với cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân. Trường hợp này chỉ có bên chủ thể thương nhân nhằm mục đích kiếm lời, bên không phải là thương nhân nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng là chủ yếu. Những hợp đồng được thiết lập giữa bên không nhằm mục đích sinh lợi với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam, về nguyên tắc, không chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại trừ khi bên không nhằm mục đích sinh lợi đó lựa chọn áp dụng Luật Thương mại.

Cũng có những trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với mục đích sinh lời nhưng số lượng các giao dịch đó không phải là phổ biến và không gắn với hoạt động kinh doanh thường xuyên. Ví dụ: A mua nhà của công ty kinh doanh bất động sản B để kiếm lời. Việc mua bán nhà kiếm lời của A không diễn ra thường xuyên nên xem xét mục đích giao kết hợp đồng mua bán nhà trên chủ yếu chỉ xem xét về “công việc” gắn liền với nghề nghiệp của công ty B.

Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể

Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Ví dụ: hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được thể hiện bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.

Hình thức của hợp đồng là cách thức thể hiện và ghi nhận ý chí của các bên trong việc giao kết hợp đồng. Về nguyên tắc, các bên được tự do lựa chọn hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa trừ những trường hợp pháp luật có quy định về hình thức cụ thể của hợp đồng thì các bên mua và bán hàng hóa phải tuân thủ quy định của pháp luật về hình thức hợp đồng. Luật Thương mại quy định đa dạng về các hình thức thể hiện của hợp đồng mua bán hàng.

Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế CISG công nhận nguyên tắc tự do về hình thức hợp đồng, nghĩa là hợp đồng

mua bán hàng hóa không nhất thiết phải bằng văn bản mà có thể được thành lập bằng lời nói, bằng hành vi và có thể được chứng minh bằng mọi cách kể cả bằng nhân chứng. Đây là một điểm khác biệt cơ bản giữa CISG và pháp luật Việt Nam về hình thức của hợp đồng. Tuy nhiên, sự khác biệt này không cản trở Việt Nam tham gia CISG vì Việt Nam có quyền bảo lưu sự khác biệt này theo Điều 96 của CISG.

* Một số lưu ý:

– Theo quy định của pháp luật Việt Nam, động sản là những tài sản không phải là bất động sản. Bất động sản bao gồm: đất đai, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó, các tài sản khác gắn liền với đất đai.

Đọc thêm: Hợp đồng mua bán xe máy

Như vậy, đất đai không được coi là hàng hóa trong thương mại và phù hợp với quy định của Luật Đất đai: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”. Tuy nhiên, nhà, công trình xây dựng luôn phải tồn tại cùng đất đai – quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất cũng được chuyển nhượng (mua bán) nhưng giao dịch này do Luật Đất đai điều chỉnh.

Vì vậy, hợp đồng mua bán hàng hóa là nhà, công trình gắn liền với đất đai không chỉ chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại mà còn chịu sự điều chỉnh của Luật Kinh doanh bất động sản và Luật Đất đai. Đây cũng là một vấn đề phức tạp trong việc áp dụng pháp luật đối với việc mua bán hàng hóa là vật gắn liền với đất đai.

– Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương mại theo đó các bên thỏa thuận việc mua bán một lượng nhất định của một loại hàng hóa nhất định qua Sở giao dịch hàng hóa theo những tiêu chuẩn của Sở giao dịch hàng hóa với giá được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai. Qua định nghĩa về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa có thể thấy những điểm khác biệt giữa mua bán hàng hóa không qua Sở giao dịch hàng hóa và mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa. Từ đó, hợp đồng mua bán hàng hóa qua và không qua Sở giao dịch hàng hóa cũng sẽ khác nhau.

Hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa trước hết là một loại hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại nên cũng có những đặc điểm chung của hợp đồng mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa có những đặc thù riêng. Đó là:

+ Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa phải là những hàng hóa do Sở giao dịch hàng hóa quy định hoặc ở Việt Nam sẽ do Bộ trưởng Bộ Công thương quy định. Trong khi đó, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa không qua Sở giao dịch hàng hóa là những hàng hóa được phép lưu thông.

+ Một số nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa như phẩm cấp, chất lượng, thời gian giao hàng… phải theo những tiêu chuẩn yêu cầu của Sở giao dịch hàng hóa chứ không phải do ý chí thỏa thuận của bên mua và bên bán. Ngược lại, chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa không qua Sở giao dịch hàng hóa có quyền thỏa thuận nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa trên nguyên tắc không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

Nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa

Nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa là những thỏa thuận của các bên chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa để hình thành các quyền và nghĩa vụ của các bên. Ghi nhận và tôn trọng bản chất của hợp đồng là thỏa thuận, là việc riêng của các nhà đầu tư nên pháp luật không quy định các nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, để hợp đồng mua bán hàng hóa được thực hiện hợp pháp trong thực tiễn thì nội dung của hợp đồng không được vi phạm quy định cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Như vậy, nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ do các chủ thể hợp đồng thỏa thuận xây dựng và không vi phạm quy định của pháp luật, trái đạo đức xã hội. Thông thường nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ thỏa thuận những vấn đề sau:

– Đối tượng hàng hóa mua bán;

– Giá cả hàng hóa và cách thức, thời điểm thanh toán;

– Địa điểm giao hàng;

– Thời gian giao hàng: thời điểm cụ thể hoặc một thời hạn xác định;

– Trách nhiệm bảo hành đối với một số loại hàng hóa;

– Đảm bảo quyền sở hữu của bên bán đối với hàng hóa;

– Chế tài đối với vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa;

– Những trường hợp miễn trách nhiệm vật chất;

– Thỏa thuận về cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng;

– Thỏa thuận về thời điểm hợp đồng có hiệu lực và thời điểm thực hiện hợp đồng;

– Các thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ khác.

Tìm hiểu thêm: Bài tập về đề nghị giao kết hợp đồng

quantri

quantri

Bài viết mới

Nhận tin mới nhất từ chúng tôi !