>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900.6162
Luật sư phân tích:
Xem thêm: điều 123 bộ luật dân sự 2015
1. Khái niệm giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hành vi pháp lý đơn phương là hành vi thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình hoặc bên còn lại trong quan hệ.
Từ quy định này ta thấy giao dịch dân sự được xác định là kết quả của việc làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ dân sự. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lí (hành vi pháp lí đơn phương hoặc đa phương – một bên hoặc nhiều bên) làm phát sinh hậu quả pháp lí. Tuỳ từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch, với những mục đích và động cơ nhất định.
Giao dịch dân sự phải đảm bảo điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 117, Bộ luật Dân sự 2015 bao gồm các điều kiện sau:
– Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
– Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
>> Xem thêm: Giao dịch dân sự là gì ? Đặc điểm, phân loại giao dịch dân sự ? Cho ví dụ
– Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.
Nếu vi phạm các điều kiện này thì giao dịch sẽ không có giá trị pháp lý ngay từ thời điểm thực hiện giao dịch. Trường hợp giao dịch chưa được thực hiện hoặc đang thực hiện thì không được thực hiện nữa và các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Nội dung chính
2. Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu
Bộ luật Dân sự quy định các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu như sau:
– Điều 122: Giao dịch dân sự vô hiệu. Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 như trên thì vô hiệu. Theo đó nếu giao dịch được thực hiện bởi người không có năng lực hành vi dân sự hoặc chưa đủ tuổi để thực hiện giao đó thì giao dịch bị vô hiệu vì không đảm bảo điều kiện về chủ thể của giao dịch dân sự. Giao dịch dân sự được xác lập không do ý chí tự nguyện của các bên, hoặc thực hiện giao dịch dân sự vì mục đích trái pháp luật, trái đạo đức thì cũng bị vô hiệu vì không đảm bảo điều kiện về ý chí, mục đích, nội dung của giao dịch. Ngoài ra đối với những trường hợp giao dịch dân sự có yêu cầu hình thức như hợp đồng phải được lập thành văn bản, phải công chứng, chứng thực thì giao dịch dân sự phải đảm bảo điều kiện đó nếu không sẽ vô hiệu.
– Điều 123. Giao dịch dân sự hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội: Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Ví dụ như những giao dịch liên quan đến mua bán trái phép chất cấm, vũ khí, vật liệu nổ…
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
– Điều 124. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo:
>> Xem thêm: Khi nào hợp đồng có hiệu lực? Các trường hợp hợp đồng vô hiệu
Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan. Ví dụ: Hai bên muốn chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nhau nhưng không muốn làm hợp đồng chuyển nhượng hoặc không đủ điều kiện để thực hiện hợp đồng này; vì vậy hai bên lập một hợp đồng ủy quyền để một bên toàn quyền đối với mảnh đất đó nhưng đằng sau đó vẫn có sự thanh toán cho nhau một khoản tiền tương ứng giá trị của quyền sử dụng đất đó và bản chất là một sự mua bán, thì trong trường hợp này, hợp đồng ủy quyền kia được coi là hợp đồng giả tạo nhằm che giấu một giao dịch mua bán đằng sau.
Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Tham khảo thêm: Luật tổ chức tòa án nhân dân
– Điều 125. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện. Trong trường hợp này, giao dịch dân sự chỉ bị vô hiệu khi có yêu cầu của người đại diện của những người đó yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu, tức giao dịch đó chỉ bị vô hiệu khi có quyết định có hiệu lực của Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Giao dịch do những chủ thể trên xác lập thực hiện nhưng thuộc khoản 2 Điều này thì không vô hiệu.
– Điều 126. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn: Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Tuy nhiên nếu giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.
– Điều 127. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép: trường hợp này, giao dịch dân sự bị vo hiệu do không đảm bảo điều kiện về ý chí của các bên trong giao dịch, việc thực hiện giao dịch là do bị đe dọa, uy hiếp buộc phải thực hiện hoặc do bị bên kia lừa dối dẫn đến hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất, nội dung giao dịch.
– Điều 128. Giao dịch dân sự do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình: Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
– Điều 129. Giao dịch dân sự do không tuân thủ về hình thức: trong trường hợp này giao dịch có quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức mà không đảm bảo điều kiện đó thì vô hiệu.
Giao dịch dân sự có thể bị vô hiệu từng phần hoặc vô hiệu toàn bộ tùy theo phạm vi vi phạm của giao dịch đó về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
3. Phân loại giao dịch dân sự vô hiệu
Căn cứ vào trình tự, thủ tục xác nhận giao dịch dân sự vô hiệu: Dựa vào căn cứ này, giao dịch dân sự vô hiệu được chia làm hai loại:
>> Xem thêm: Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định pháp luật ?
(i) Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối (hay còn gọi là vô hiệu đương nhiên) và (ii) Giao dịch dân sự vồ hiệu tương đối (hay còn gọi là vô hiệu bị tuyên). Đây là cách thức phân loại truyền thống trong khoa học pháp lý.
Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối là những giao dịch có nội dung và mục đích vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức của xã hội hoặc vì tính chất giả tạo của giao dịch. Nội dung của những giao dịch dân sự vô hiệu sẽ tác động tiêu cực đến quyền, lợi ích của các chủ thể khác trong xã hội. Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối mặc nhiên vô hiệu mà không cần thông qua các thủ tục tố tụng tuyên bố vô hiệu của Tòa án.
Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối là những giao dịch dân sự vi phạm điều kiện về năng lực chủ thể, về sự tự nguyện… Những giao dịch dân sự này xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm chủ thể tham gia hoặc quyền, lợi ích của những chủ thể liên quan. Trường hợp này, giao dịch chỉ vô hiệu khi có yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan. Sự vô hiệu của giao dịch dân sự vô hiệu tương đối được ghi nhận bởi bản án, quyết định của Tòa án.
Giữa giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và giao dịch dân sự vô hiệu tương đối tồn tại một số điểm khác biệt sau:
Thứ nhất, về nguyên nhân vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thông thường là những giao dịch dân sự vi phạm điều kiện về năng lực chủ thể hoặc vi phạm điều kiện về sự tự nguyên. Trong khi đó, giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối là những giao dịch dân sự vi phạm điều kiện về nội dung và mục đích hoặc do sự giả tạo của các chủ thể xác lập giao dịch.
Thứ hai, khác biệt trình tự vô hiệu của giao dịch. Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối thì mặc nhiên bị coi là vô hiệu. Còn đối với các giao dịch vô hiệu tương đối thì cần thông qua tuyên bố của Tòa án. Tòa án chỉ ra tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được khi có yêu cầu của chính người xác lập giao dịch hoặc người đại diện của người đã xác lập giao dịch. Ví dụ: Khoản 1 Điều 125 Bộ luật Dân sự quy định:
“Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vỉ dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vỉ hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý…
Thứ ba, khác biệt về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối thì thời hiệu yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu thường không bị hạn chế. Còn đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là hai năm; tùy theo từng trường hợp mà thời hiệu 2 năm được tính từ các thời điểm khác nhau (Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2015). Ví dụ: Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn, lừa dối là 2 năm được tính từ khi người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối; hay thời hiệu yêu câu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do bị đe dọa, cưỡng ép là 2 năm kể từ ngày người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép…
Thứ tư, khác biệt về ý nghĩa quyết định tuyên bổ giao dịch dân sự vô hiệu của Tòa án: Đối với giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối, giao dịch dân sự đó sẽ mặc nhiên không có giá trị thi hành, vì giao dịch đó vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Do đó, quyết định tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu của Tòa án chỉ mang tính chất thông báo, xác nhận về việc giao dịch dân sự vô hiệu. Tuy nhiên, đối với giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì quyết định của toà án là cơ sở làm cho giao dịch trở nên vô hiệu. Quyết định của toà án đối với giao dịch dân sự vô hiệu tương đối mang tính chất phán xử. Khi các bên chủ thể có đơn khởi kiện, các chủ thể đó phải cung cấp đầy đủ chứng cứ chứng minh yêu cầu của mình là hợp pháp. Tòa án sẽ dựa trên những chứng cứ mà các bên chủ thể cung cấp để ra quyết định tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Việc giao dịch dân sự vi phạm điều kiện phát sinh hiệu lực chỉ là điều kiện cần, để giao dịch dân sự vô hiệu tương đối, phải có một bản án hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Ví dụ: A và B xác lập hợp đồng mua bán ma túy, giao dịch dân sự này mặc nhiên vô hiệu mà không cần Tòa án tuyên bố. Tuy nhiên, trong trường hợp A bị B lừa dối mua phải hàng giả, A yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng mua bán vô hiệu A phải cung cấp được những chứng cứ chứng minh A bị lừa dối. Dựa trên những chứng cứ mà A cung cấp, Tòa án sẽ cân nhắc xem có ra quyết định tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu hay không. Trong trường hợp này giao dịch giữa A và B chỉ vô hiệu khi Tòa án ra quyết định tuyên bố vô hiệu và quyết định đó đã phát sinh hiệu lực.
Thứ năm, khác biệt về mục đích xác định giao dịch dân sự vô hiệu. Việc xác định giao dịch vô hiệu tuyệt đối nhằm mục đích bảo vệ các lợi ích công, lợi ích của Nhà nước, của xã hội nói chung. Như trường hợp giao dịch dân sự vĩ phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì việc xác định giao dịch này vô hiệu nhằm bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng. Còn đối với việc xác định giao dịch dân sự vô hiệu tương đối nhằm mục đích bảo vệ lợi ích cho chính các chủ thể tham gia giao dịch. Ví dụ như việc xác định hợp đồng được xác lập do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép vô hiệu là nhằm bảo vệ chính những quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, bị cưỡng ép.
>> Xem thêm: Phân tích hợp đồng chính và hợp đồng phụ theo quy định pháp luật hiện nay? Hợp đồng chính vô hiệu có dẫn theo hợp đồng phụ vô hiệu không?
Bộ luật Dân sự hiện hành đã có những quy định cụ thể về giao dịch dân sự vô hiêu tuyệt đối tại các Điều 123, Điều 124, Điều 129. Còn các giao dịch dân sự vô hiệu tương đối tại các Điều 125, Điều 126, Điều 127 và Điều 128.
Căn cứ vào mức độ vô hiệu. Dựa trên căn cứ này, giao dịch dân sự vô hiệu được chia làm hai loại: Giao dịch dân sự vô hiệu một phần và giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ.
Tham khảo thêm: điều 100 101 luật đất đai 2013
Giao dịch dân sự vô hiệu một phần: Là giao dịch dân sự có một phần nội dung vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Nội dung vô hiệu này của giao dịch không làm ảnh hưởng đến những nội dung khác của giao dịch. Đối với giao dịch dân sự vô hiệu một phần thì chỉ phần vô hiệu không có hiệu lực và không được thực hiện; còn phần nội dung không bị vô hiệu thì vẫn có hiệu lực, được các bên thực hiện. Điều 130 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định về loại giao dịch dân sự vô hiệu này như sau:
“Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khỉ một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch’’.
Ví dụ: Vì cần tiền kinh doanh nên A thỏa thuận bán cho B một số tài sản: nhà ở, xe ô tô, cặp sừng tê giác (tất cả những tài sản này đều được lập cùng trong một hợp đồng mua bán tài sản). Trong trường hợp này, hợp đồng mua bán bị vô hiệu với các phần nội dung liên quan đến đối tượng là sừng tê giác. Những nội dung còn lại vẫn có hiệu lực pháp luật.
Giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ. Là những giao dịch dân sự mà trong đó toàn bộ nội dung đều vô hiệu hoặc chỉ có một trong sổ những nội dung vô hiệu nhưng lại ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ nội dung giao dịch dân sự. Ví dụ: Giao dịch mua bán đối với các tài sản cấm lưu thông như ma túy, vũ khí… là giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ.
Giao dịch dân sự vô hiệu do chủ thể tham gia giao dịch không có sự tự nguyện: Đây là những giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về sự tự nguyện của chủ thể xác lập giao dịch theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015. Các giao dịch dân sự vô hiệu thuộc nhóm này bao gồm: Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015); Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều 126 Bộ luật Dân sự năm 2015); Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015); Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (Điều 128 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Giao dịch dãn sự vỏ hiệu do mục đích và nội dung của giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội: Đây là những giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về mục đích, nội dung giao dịch theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015. Loại giao dịch dân sụ vô hiệu này được quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Giao dịch dãn sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức của giao dịch: Đây là những giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức của giao dịch dân sự theo quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật Dân sự và Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Hình thức của giao dịch dân sự
>> Xem thêm: Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu ? Cách phân loại giao dịch dân sự vô hiệu ?
1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.
5.Giao dịch dân sự có điều kiện
1. Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ.
2. Trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; trường hợp có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên cố ý thúc đẩy cho điều kiện xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra.
6. Điều kiện về chủ thể để giao dịch dân sự có hiệu lực
Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập. Ở điều kiện này, để xem xét đủ điều kiện hay không cần quan tâm đến 2 yếu tố:
– Yếu tố thứ nhất là phải xem độ tuổi của người xác lập giao dịch: Có giao dịch phải xem độ tuổi của 2 bên (mua, bán, vay, mượn, thuê…), nhưng có giao dịch cũng chỉ cần quan tâm độ tuổi của một bên như tặng cho, hứa thưởng, thi có giải… Trên thự tế khi xác định giao dịch dân sự có đảm bảo hay không cần kiểm tra xem người tham gia giao dịch tại thời điểm giao dịch sinh năm mấy, tại thời điểm xác lập giao dịch họ bao nhiêu tuổi, nếu họ đã đủ 18 tuổi trở lên thì đủ điều kiện về độ tuổi thực hiện tất cả các loại giao dịch.
+ Khi thực hiện giao dịch họ chưa đủ 18 tuổi nhưng giao dịch này chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho họ đối với người xác lập giao dịch thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực (nếu không vi phạm các điều kiện khác). Ví dụ họ được tặng, cho tài sản, được trả nợ hộ…
>> Xem thêm: Giao dịch dân sự vô hiệu trong những trường hợp nào? Thời hiệu yêu cầu tuyên bố vô hiệu?
+ Khi thực hiện giao dịch họ chưa đủ 18 tuổi, nhưng khi họ đủ 18 tuổi, họ thừa nhận hiệu lực của giao dịch dân sự mà họ đã xác lập khi chưa đủ tuổi thì giao dịch đó không bị vô hiệu do vi phạm về điều kiện độ tuổi của chủ thể (nếu không vi phạm các điều kiện khác).
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại gọi ngay số: 1900.6162 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật Dân sự – Công ty luật Minh Khuê
Tham khảo thêm: Bộ luật dân sự số 33 2005 qh11