Nội dung chính
1. Năng lực pháp luật
1.1. Khái niệm năng lực pháp luật
Năng lực pháp luật là khả năng có quyền, nghĩa vụ pháp lí do nhà nước quy định cho các cá nhân, tổ chức nhất định.
Năng lực pháp luật là khả năng mà pháp luật quy định đối với các cá nhân có thể được tham gia quan hệ pháp luật nào. Khả năng này thể hiện ở quy định về các điều kiện khác nhau đối với từng quan hệ pháp luật. Năng lực pháp luật có thể coi là phần tối thiểu trong năng lực chủ thể. Với năng lực pháp luật, các chủ thể chỉ tham gia thụ động vào các quan hệ pháp luật. Tính thụ động được thể hiện là chủ thể không tự tạo ra cũng như không thể tự mình thực hiên được các quyền và nghĩa vụ pháp lí. Chẳng hạn, đứa trẻ được thừa kế tài sản khi bố, mẹ chết. Xét trong mối quan hệ thừa kế này, đứa trẻ chỉ có năng lực pháp luật, nó không thể tự mình thực hiện được các hành vi nhất định. Do vậy, các quyền, lợi ích hợp pháp của đứa trẻ được thực hiên thông qua người đại diện hợp pháp của nó.
Xem thêm: Năng lực pháp luật
Năng lực pháp luật là thuộc tính không thể tách rời của chủ thể vì khi nói tới chủ thể của quan hệ pháp luật thì trước tiên phải nói tới năng lực pháp luật. Tuy nhiên, đây không phải tính tự nhiê mà do nhà nước quy định cho chủ thể. Trên thực tế, các nhà nước khác nhau có thể có quy định khác nhau về năng lực pháp luật của chủ thể quan hệ pháp luật.
1.2. Đặc điểm của năng lực pháp luật
Thứ nhất: Năng lực pháp luật là thuộc tính không thể tách rời của mỗi chủ thể.
Đối với cá nhân, năng lực pháp luật xuất hiện ngay khi cá nhân đó sinh ra và chấm dứt khi cá nhân đó chết đi.Ví dụ: mỗi cá nhân sinh ra đều có quyền được sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền đối với hình ảnh cá nhân,… ngược lại mọi cá nhân có nghĩa vụ phải tôn trọng quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền đối với hình ảnh của người khác,…
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, năng lực pháp luật của cá nhân xuất hiện từ khi người đó còn trong bào thai (như quyền thừa kế, quyền này được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ nếu người đó được sinh ra và con sống); có những quyền nhân thân mà đến một độ tuổi nhất định mới có (như: quyền của vợ, chồng, giám hộ,…). Cũng có những quyền mà sau khi cá nhân chết đi mới có (như: quyền được khai tử) hoặc khi chết đi mà quyền đó vẫn còn(như: quyền giữ bí mật đời tư, quyền hình ảnh,…).
Đối với tổ chức, năng lực pháp luật xuất hiện khi tổ chức đó được thành lập theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định hoặc được Nhà nước thừa nhận. Năng lực pháp luật của tổ chức chấm dứt khi tổ chức đó giải thể, phá sản hoặc sáp nhập vào một tổ chức khác. Chẳng hạn như: quyền thừa kế, quyền đối với tên, quyền tài sản,…
Thứ hai: Năng lực pháp luật không phải là thuộc tính tự nhiên mà được Nhà nước điều chỉnh trên cơ sở các quy định pháp luật.
Chỉ những quyền và nghĩa vụ được Nhà nước công nhận hay điều chỉnh bằng các chế định pháp luật thì mới làm hình thành năng lực pháp luật của cá nhân, tổ chức. Chẳng hạn, cá nhân trong quan hệ họ hàng có quyền và nghĩa vụ nhất định với nhau nhưng các quyền và nghĩa vụ đó không được Nhà nước điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật nên các quyền và nghĩa vụ đó không phải là năng lực pháp luật của cá nhân.
Thứ ba: Năng lực pháp luật của không thể chuyển giao, không bị hạn chế, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Năng lực pháp luật chỉ là chủ thể tham gia quan hệ pháp luật có các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà chưa liên quan đến trách nhiệm khi chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó nên năng lực pháp luật của mọi cá nhân, tổ chức là như nhau cả về mức độ, độ tuổi, trình độ văn hóa, khả năng nhận thức,… Chẳng hạn, người bị thiểu năng về trí tuệ cũng có quyền thừa kế như người có khả năng nhận thức bình thường, dù là trẻ em hay người lớn đều có nghĩa vụ phải tuân thủ pháp luật.
2. Năng lực dân sự của cá nhân
2.1. Khái niệm năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
“Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và có nghĩa vụ dân sự” (khoản 1 Điều 16 BLDS 2015).
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng, tiền đề, điều kiện cần thiết để công dân có quyền, có nghĩa vụ, là thành phần không thể thiếu được của cá nhân với tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, là một mặt của năng lực chủ thể.
2.2. Đặc điểm của năng lực pháp luật của cá nhân
Đọc thêm: điều 250 bộ luật hình sự 2015
– Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được Nhà nước ghi nhận trong các văn bản pháp luật mà nội dung của nó phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, vào hình thái kinh tế – xã hội tại thời điểm lịch sử nhất định.
– Mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật, khoản 2 Điều 16 BLDS 2015 quy định: “Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau”. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế bởi bất cứ lí do nào (độ tuổi, địa vị xã hội, giới tính, tôn giáo, dân tộc,…)
– Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân do Nhà nước quy định cho tất cả cá nhân nhưng Nhà nước cũng không cho phép công dân tự hạn chế năng lực pháp luật của chính họ và của cá nhân khác.( Điều 18 BLDS 2015)
– Tính đảm bảo của năng lực pháp luật dân sự.
2.3. Nội dung của năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
– Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản.
– Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản.
– Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
2.4. Bắt đầu và chấm dứt năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
“Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết” (khoản 3 Điều 16 BLDS). Với quy định này, pháp luật thừa nhận năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là thuộc tính gắn liền với cá nhân suốt đời và không bị ảnh hưởng bởi trạng thái tinh thần, tuổi tác, hoàn cảnh, tài sản.
Một trường hợp ngoại lệ được pháp luật quy định là “Người sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người thừa kế để lại di sản thừa kế của người chết” vẫn được hưởng di sản thừa kế của người chết để lại. Như vây, thai nhi đã được bảo lưu quyền thừa kế nếu còn sống sau khi sinh ra.
3. Năng lực pháp luật của pháp nhân
Pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật như một chủ thể bình đẳng, độc lập với các chủ thể khác, cho nên pháp nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Khác với năng lưc chủ thể cá nhân, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân phát sinh đồng thời và tồn tại tương ướng với thời điểm thành lập và đình chỉ pháp nhân. Đối với các pháp nhân theo quy định phải đăng kí hoạt động thì năng lực chủ thể phát sinh kể từ thời điểm đăng kí.
3.1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là gì?
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Pháp nhân có năng lực pháp luật kể từ thời điểm tư cách pháp nhân phát sinh. Khác với năng lực pháp luật của cá nhân, năng lực pháp luật của pháp nhân do luật xác định về nội dung, phù hợp với đặc điểm của từng loại pháp nhân, thậm chí với từng pháp nhân.
3.2. Đặc điểm của năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
Thứ nhất, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được Nhà nước ghi nhận trong các văn bản pháp luật mà nội dung của nó phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội; vào hình thái kinh tế – xã hội tại thời điểm lịch sử nhất định.
Thứ hai, mọi pháp nhân đều bình đẳng về quan hệ pháp luật dân sự, đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế bởi bất cứ lí do nào. Mọi pháp nhân đều có khả năng hưởng quyền như nhau và gánh chịu nghĩa vụ như nhau.
Tìm hiểu thêm: Giải thích ý nghĩa biểu tượng ngành luật? Nguồn gốc ra đời?
Thứ ba, năng lực pháp luật của pháp nhân không thể bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định.
Thứ tư, Nhà nước tạo điều kiện để đảm bảo năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được thực hiện qua các chính sách về kinh tế, chính trị, xã hội.
3.3. Nội dung năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là yếu tố cấu thành năng lực chủ thể của pháp nhân bên cạnh yếu tố năng lực hành vi dân sự của pháp nhân. Giống với quy định về cá nhân, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự.
Những quyền và nghĩa vụ thuộc năng lực pháp luật của pháp nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Những quyền và nghĩa vụ này tồn tại dưới dạng “khả năng”, nếu pháp nhân muốn hiện thực hóa những quyền và nghĩa vụ đang ở dạng khả năng thành hiện thực thì phải thông qua hành vi của pháp nhân trên thực tế.
3.4. Thời điểm bắt đầu và kết thúc năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
Thời điểm bắt đầu năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
Bộ luật Dân sự 2015 quy định rõ những thời điểm pháp nhân bắt đầu có năng lực pháp luật dân sự như sau:
– Thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập;
– Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập;
– Đối với pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký.
Từ thời điểm phát sinh năng lực pháp luật dân sự, pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự có thể tham gia vào các quan hệ dân sự nói chung và giao dịch dân sự nói riêng.
Thời điểm kết thúc năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
Khi pháp nhân giải thể, doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản thì chấm dứt tư cách chủ thể trong các quan hệ pháp luật, cho nên năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm pháp nhân chấm dứt hoạt động.
Luật Minh KHuê (sưu tầm & biên tập)
Tham khảo thêm: điều 146 bộ luật hình sự 2015