Tội nhận hối lộ được Bộ luật Hình sự 2015 quy định với nhiều điểm mới, khoa học và chặt chẽ. Trong bài viết này, tác giả phân tích, bình luận các yếu tố các cấu thành tội phạm và đường lối xử lý theo cấu thành tội phạm cơ bản theo khoản 1 Điều 354 Bộ luật Hình sự 2015.
Nội dung chính
- 1 1. Khái niệm nhận hối lộ
- 2 2. Dấu hiệu pháp lý
- 3 3. Đường lối xử lý Tội nhận hối lộ theo cấu thành tội phạm
- 3.1 3.1. Đường lối xử lý Tội nhận hối lộ theo cấu thành tội phạm cơ bản
- 3.2 3.2. Đường lối xử lý Tội nhận hối lộ theo cấu thành tội phạm tăng nặng thứ nhất
- 3.3 3.3. Đường lối xử lý Tội nhận hối lộ theo cấu thành tội phạm tăng nặng thứ hai
- 3.4 3.4. Đường lối xử lý Tội nhận hối lộ theo cấu thành tội phạm tăng nặng thứ ba
- 3.5 3.5. Đường lối xử lý Tội nhận hối lộ theo quy định về hình phạt bổ sung
- 3.6 3.6. Đường lối xử lý Tội nhận hối lộ theo cấu thành tội phạm đặc biệt
1. Khái niệm nhận hối lộ
Theo Điều 354 BLHS năm 2015 thì nhận hối lộ là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này (1), chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc lợi ích phi vật chất, để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, do người từ đủ 16 tuổi trở lên và không trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện (2) với lỗi cố ý trực tiếp (3).
Xem thêm: điều 354 bộ luật hình sự 2015
2. Dấu hiệu pháp lý
2.1. Khách thể
Khách thể của Tội nhận hối lộ là những quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức trong Nhà nước và của cả các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước; làm cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp này bị suy yếu, mất uy tín; làm cho nhân dân mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước.
2.2. Mặt khách quan
Người nhận hối lộ thuộc 01 trong 04 trường hợp sau đây mới phạm tội nhận hối lộ:
Một là, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên, để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Hai là, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Ba là, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương XXIII, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Bốn là, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác lợi ích phi vật chất, để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Người nào tuy nhận hối lộ nhưng trị giá dưới 2.000.000 đồng và chưa bị xử lý kỷ luật về hành vi nhận hối lộ, cũng chưa bị kết án về một trong các tội: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; lạm quyền trong khi thi hành công vụ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác hoặc tuy đã bị kết án về một trong các tội: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; lạm quyền trong khi thi hành công vụ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác nhưng đã được xóa án tích thì không phạm tội nhận hối lộ.
Nếu người lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá dưới 2.000.000 đồng, tuy trước đó họ đã bị xử lý kỷ luật về hành vi nhận hối lộ bằng một trong những hình thức kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức nhưng đã hết thời hạn được xoá kỷ luật (4) thì cũng không phạm tội nhận hối lộ.
Lợi ích phi vật chất quy định trong tội này có thể là lợi ích về tinh thần, về tình cảm, tình dục…
2.3. Mặt chủ thể
Chủ thể của Tội nhận hối lộ là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức nhà nước và doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước, từ đủ 16 tuổi trở lên và không trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Chủ thể của Tội nhận hối lộ cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: Độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các điều 12, 21 BLHS năm 2015.
2.4. Mặt chủ quan
Người phạm tội nhận hối lộ thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp, tức là, “họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (5) ; không có trường hợp nhận hối lộ nào được thực hiện do cố ý gián tiếp, vì người phạm tội này bao giờ cũng mong muốn thực hiện được hành vi phạm tội.
Xem thêm: Khái niệm, đặc điểm và các yếu tố cấu thành tội phạm
3. Đường lối xử lý Tội nhận hối lộ theo cấu thành tội phạm
3.1. Đường lối xử lý Tội nhận hối lộ theo cấu thành tội phạm cơ bản
Khoản 1 Điều 354 BLHS năm 2015 là cấu thành cơ bản của Tội nhận hối lộ, có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội nhận hối lộ theo khoản 1 Điều 354 BLHS năm 2015, cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VIII BLHS năm 2015 (từ Điều 50 đến Điều 59).
Nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015, không có tình tiết tăng nặng, thì có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng (dưới 02 năm tù) hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn là hình phạt cải tạo không giam giữ. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án (6).
Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 65 BLHS năm 2015 thì người phạm tội nhận hối lộ được hưởng án treo.
Tìm hiểu thêm: điều 389 bộ luật hình sự 2015
Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, không có tình tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến 07 năm tù.
Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì: Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 354 BLHS năm 2015 bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 1 của Điều luật này; người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 BLHS năm 2015 sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn; người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn; người phạm tội trả lại tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác mà họ đã nhận hoặc bồi thường được càng nhiều thiệt hại mà họ đã gây ra thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội không trả lại tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác mà họ đã nhận hoặc không bồi thường thiệt hại mà họ đã gây ra hoặc chỉ trả lại không đáng kể tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác mà họ đã nhận hoặc chỉ bồi thường không đáng kể thiệt hại mà họ đã gây ra (7).
3.2. Đường lối xử lý Tội nhận hối lộ theo cấu thành tội phạm tăng nặng thứ nhất
Theo khoản 2 Điều 354 BLHS năm 2015, người phạm tội nhận hối lộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
Có tổ chức: Nhận hối lộ có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm này, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án nhận hối lộ có tổ chức nào cũng có đủ những người đồng phạm trên.
Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 17 BLHS năm 2015 (8).
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn: Người phạm tội nhận hối lộ nhất thiết phải là người lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì mới nhận được hối lộ, nếu chỉ có lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có thì đó chỉ là tình tiết là yếu tố định tội, nhưng nếu người nhận hối lộ lại lạm dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có để nhận hối lộ hoặc người nhận hối lộ đã làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ vượt quá phạm vi thẩm quyền thuộc chức vụ, quyền hạn của họ thì lại là tình tiết là yếu tố định khung hình phạt.
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn là làm một việc vượt quá chức vụ, quyền hạn mà mình có (vượt ra khỏi phạm vi quyền hạn của mình) như: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường ra lệnh bắt người tạm giữ hoặc tạm giam; Trưởng Công an phường, xã bắt người tạm giữ, tạm giam để đòi hối lộ; cán bộ quản lý thị trường ra lệnh khám nhà, khám người…
Để lạm dụng chức vụ, quyền hạn, trước hết người phạm tội phải có chức vụ, quyền hạn nhưng đã sử dụng vượt quá chức vụ, quyền hạn đã có. Nếu một người không có chức vụ, quyền hạn gì nhưng lại mạo danh là mình có chức vụ, quyền hạn đó để nhận hối lộ thì không phải là lạm dụng chức vụ, quyền hạn để nhận hối lộ mà là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015.
Thông thường, người phạm tội trong trường hợp này chỉ lạm dụng quyền hạn, chứ ít khi lạm dụng chức vụ. Tuy nhiên, quyền hạn bao giờ gắn liền với chức vụ, nên khi nói đến lạm quyền cũng là lạm dụng chức vụ. Trước đây, thuật ngữ lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lạm dụng chức vụ, quyền hạn được hiểu như nhau. Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản của công dân đã dùng thuật ngữ “lạm dụng chức quyền” để chỉ hành vi phạm tội lạm dụng chức quyền, để chiếm đoạt tài sản của công dân (Điều 8) và được giải thích là: “Lạm dụng chức quyền có thể là làm trong phạm vi quyền hạn của mình hoặc vượt ra khỏi phạm vi quyền hạn của mình” (9).
Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng: Đây là trường hợp người phạm tội đã nhận hối lộ mà của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội khác, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản hoặc lợi ích vật chất khác thì giá trị tài sản hoặc lợi ích vật chất khác được xác định căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản hoặc lợi ích vật chất khác thì phải trưng cầu giám định (định giá).
Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng: Nhận hối lộ gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng là trường hợp ngoài hành vi nhận hối lộ (thỏa mãn 01 trong 04 trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 354 BLHS năm 2015), người phạm tội nhận hối lộ còn gây thiệt hại (khác) về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng.
Phạm tội 02 lần trở lên: Nhận hối lộ 02 lần trở lên là trường hợp có từ 02 lần nhận hối lộ trở lên, mỗi lần nhận hối lộ đều đã cấu thành tội phạm và nay bị đưa ra xét xử cùng một lúc, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước đến lần phạm tội sau.
Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội 02 lần trở lên nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó, chỉ có 01 lần phạm tội nhận hối lộ, còn các lần khác chỉ là vi phạm kỷ luật hoặc đã bị xét xử hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (10) thì không được tính để xác định là phạm tội nhận hối lộ 02 lần trở lên.
Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước: Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước là trường hợp người nhận hối lộ biết rõ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác là tài sản Nhà nước mà vẫn nhận.
Về khái niệm tài sản của Nhà nước cho đến nay vẫn còn ý kiến khác nhau, nếu tài sản thuộc quyền sở hữu hoàn toàn của Nhà nước thì không cần phải bàn cãi, nhưng nếu tài sản chỉ thuộc quyền sở hữu một phần của Nhà nước thì vấn đề lại không đơn giản như: Các công ty cổ phần, Công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các đơn vị liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với các đơn vị kinh tế tập thể hoặc tư nhân… Nếu người nhận hối lộ biết của hối lộ là tài sản của các đơn vị kinh tế này thì có coi là tài sản của Nhà nước không?
Chúng tôi cho rằng, về nguyên tắc, tài sản của Nhà nước phải thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc trên 50% thuộc sở hữu của Nhà nước. Nếu tài sản đó Nhà nước chỉ có quyền sở hữu 50% thì cũng chưa thể coi đó là tài sản của Nhà nước.
Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt: Tình tiết này chứa đựng ba nội dung khác nhau: Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt. Người phạm tội chỉ thuộc 01 trong 03 trường hợp phạm tội này đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 2 Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015, nhưng nếu người phạm tội nhận hối lộ thuộc cả 03 trường hợp phạm tội này thì cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 2 của Điều luật.
Đòi hối lộ là người nhận hối lộ chủ động yêu cầu người khác phải đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác hoặc lợi ích phi vật chất cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác thì mới làm hoặc không làm một việc vì lợi ích của hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Thực tiễn xét xử cho thấy, người nhận hối lộ không trực tiếp yêu cầu người khác phải đưa hối lộ nhưng lại có thủ đoạn gợi ý hoặc qua trung gian để gợi ý cho người khác đưa hối lộ cho mình. Trường hợp phạm tội này cũng phải coi là đòi hối lộ, thậm chí còn bị coi là dùng thủ đoạn xảo quyệt để đòi hối lộ.
Đọc thêm: Thế nào là hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật?
Sách nhiễu là trường hợp người nhận hối lộ gây khó dễ cho người khác để đòi tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác hoặc lợi ích phi vật chất của họ như: Đã có quyết định cấp đất nhưng cố tình trì hoãn việc giao quyết định cho người được giao đất; đã có chủ trương đền bù giải phóng mặt bằng nhưng cố tình trì hoãn việc thanh toán cho người được đền bù; đã có bản án có hiệu lực pháp luật, có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành nhưng cố tình trì hoãn việc ra quyết định thi hành án… Nói chung, người sách nhiễu để đòi hối lộ là người không làm một việc vì lợi ích của người đưa hối lộ. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người nhận hối lộ sách nhiễu để đòi hối lộ và làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Sách nhiễu là hành động tha hoá của một bộ phận công chức trong bộ máy nhà nước cần phải xử lý nghiêm khắc. Nhà làm luật coi tình tiết sách nhiễu để dòi hối lộ là yếu tố định khung hình phạt cũng là phù hợp với đạo đức xã hội thể hiện được ý chí của nhân dân.
Dùng thủ đoạn xảo quyệt để nhận hối lộ là người phạm tội nhận hối lộ có những mánh khoé, cách thức gian dối, thâm hiểm làm cho người đưa hối lộ hoặc những người khác khó lường thấy được để đề phòng. Những mánh khoé, cách thức mà người nhận hối lộ sử dụng để nhận hối lộ rất đa dạng, nhưng chỉ coi là dùng thủ đoạn xảo quyệt đối với những mánh khoé, cách thức làm cho người khác dễ bị lừa hoặc nếu biết cũng không đối phó được như: Nhận hối lộ nhưng lại buộc người đưa phải viết giấy bán tài sản cho mình hoặc giấy biên nhận nợ; nhận hối lộ bằng cách buộc người đưa hối lộ mua tài sản của mình với giá gấp nhiều lần so với giá thật; nhận hối lộ bằng cách buộc người đưa hối lộ chuyển vào tài khoản của mình một khoản tiền được ngụy trang dưới một hợp đồng mua bán hay đứng tên người khác… Nói chung, những mánh khoé, cách thức nhận hối lộ mà người nhận hối lộ sử dụng rất khó phát hiện hoặc nếu có bị phát hiện thì khó tìm được chứng cứ để buộc tội họ.
Người phạm tội nhận hối lộ thuộc một trong các trường hợp nêu trên, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội nhận hối lộ theo khoản 2 Điều 354 BLHS năm 2015, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VIII BLHS năm 2015 (từ Điều 50 đến Điều 59).
Nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, không có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật (từ 02 năm tù đến dưới 07 năm tù). Nếu người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật (dưới 02 năm tù).
Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS năm 2015, không có tình tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến 15 năm tù.
3.3. Đường lối xử lý Tội nhận hối lộ theo cấu thành tội phạm tăng nặng thứ hai
Khoản 3 Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015, người phạm tội nhận hối lộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:
Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng: Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015, chỉ khác là của hối lộ mà người phạm tội này đã nhận là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng: Nhận hối lộ gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng là trường hợp ngoài hành vi nhận hối lộ (thỏa mãn 01 trong 04 trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 354 BLHS năm 2015), người phạm tội nhận hối lộ còn gây thiệt hại (khác) về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng.
Khi quyết định hình phạt nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015, không có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật (từ 07 năm tù đến dưới 15 năm tù). Nếu người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật (dưới 07 năm tù).
Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, không có tình tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến 20 năm tù.
3.4. Đường lối xử lý Tội nhận hối lộ theo cấu thành tội phạm tăng nặng thứ ba
Khoản 4 Điều 354 BLHS năm 2015, người phạm tội nhận hối lộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên: Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 354 BLHS năm 2015, chỉ khác là của hối lộ mà người phạm tội này đã nhận là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên.
Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên: Nhận hối lộ gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên là trường hợp ngoài hành vi nhận hối lộ (thỏa mãn 01 trong 04 trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 354 BLHS năm 2015), người phạm tội nhận hối lộ còn gây thiệt hại (khác) về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.
Người phạm tội nhận hối lộ thuộc một trong các trường hợp nêu trên, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: Khi quyết định hình phạt nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015, không có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật (từ 15 năm tù đến dưới 20 năm tù). Nếu người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật (dưới 15 năm tù).
Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS năm 2015, không có tình tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến tử hình.
3.5. Đường lối xử lý Tội nhận hối lộ theo quy định về hình phạt bổ sung
Ngoài những hình phạt chính như đã nêu trên, người phạm tội nhận hối lộ còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản (khoản 5 Điều 354 BLHS năm 2015).
Việc áp dụng hình phạt bổ sung có tác dụng hỗ trợ hình phạt chính, tăng khả năng trừng trị người phạm tội, giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
3.6. Đường lối xử lý Tội nhận hối lộ theo cấu thành tội phạm đặc biệt
Để xử lý hành vi nhận hối lộ ngoài khu vực Nhà nước, khoản 6 Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung quy định: “Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà nhận hối lộ, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này”./.
Tìm hiểu thêm: điều 244 bộ luật hình sự 2015