Độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là độ tuổi trẻ em bắt đầu dậy thì, nhất là đối với trẻ em nữ, các bộ phận nhạy cảm trên cơ thể cũng phát triển rõ rệt. Người phạm tội thường lợi dụng độ tuổi này để thực hiện tội phạm xâm hại tình dục với các em. Do vậy, pháp luật hình sự đặt ra quy định riêng về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Nội dung chính
- 1 1. Căn cứ pháp lý
- 2 2. Dấu hiệu pháp lý của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
- 3 3. Các tình tiết định khung hình phạt cụ thể
- 4 4. Hình phạt đối với người phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
- 5 5. Vụ án thực tế xét xử về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
1. Căn cứ pháp lý
Điều 145 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi như sau:
Xem thêm: điều 145 bộ luật hình sự
“Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Dấu hiệu pháp lý của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
2.1. Khách thể của tội phạm
Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là hành vi của một người đã thành niên quan hệ tình dục với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Tội phạm xâm phạm sự phát triển bình thường về thể chất và sinh lý của trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Như vậy, khách thể của tội phạm là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em; thể chất, sinh lý và vấn đề tình dục của trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Theo Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi quy định:
Giao cấu là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào.
Thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây:
a) Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác;
b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.
Nạn nhân của tội phạm này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật Hình sự. Tức là trường hợp nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi bị dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của họ, người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điểm a Khoản 1 Điều 142 – Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Trường hợp nan nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi bị cưỡng dâm bởi người mình đang lệ thuộc hay trong trạng thái quẫn bách, người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 144 – Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Theo đó, trường hợp người phạm tội xâm hại tình dục đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi không thuộc các trường hợp nêu trên thì phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Khác biệt với tất cả các tội phạm xâm hại đến tình dục khác, tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi không cần dấu hiệu “trái ý muốn của họ”. Điều này nghĩa là, nếu người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi chấp nhận hay không chấp nhận để người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ hình dục khác thì người thực hiện hành vi đó đều phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 6 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH quy định cách xác định tuổi của nạn nhân dưới 16 tuổi như sau:
Việc xác định tuổi của người bị hại dưới 16 tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau:
a) Giấy chứng sinh;
Đọc thêm: Thu nhập của nghề luật sư tại Việt Nam?
b) Giấy khai sinh;
c) Chứng minh nhân dân;
d) Thẻ căn cước công dân;
đ) Sổ hộ khẩu;
e) Hộ chiếu.
Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác định:
a) Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.
b) Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.
c) Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.
d) Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.
Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.
Tội phạm được coi là hoàn thành khi có hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Nếu chưa có hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác thì không cấu thành tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
2.3. Chủ thể của tội phạm
Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được thực hiện bởi bất kỳ người nào từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ nhất, tội phạm thực hiện bởi bất kỳ người nào. Đó có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài hay người không quốc tịch. Chủ thể thực hiện tội phạm có thể là cá nhân, thực hiện hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác một mình. Nhưng cũng có thể là vụ án đồng phạm, nhiều người cùng thực hiện hành vi giao cấu hay quan hệ tình dục khác đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc có một người thực hiện việc giao cấu hay quan hệ tình dục khác nhưng có người chỉ huy, hướng dẫn, có người khác xúi giục, giúp sức để người đó thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác thành công.
Thứ hai, điều luật quy định rõ chủ thể của tội phạm này phải là người từ 18 tuổi trở lên.
Thứ ba, người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Tức là người đó phải có cả năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi. Nếu người đó phạm tội trong trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực hình sự thì có thể được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 Bộ luật hình sự.
2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội đã có đầy đủ nhận thức cũng như năng lực làm chủ hành vi. Người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hậu quả xâm hại tình dục của trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình nên mong muốn hậu quả đó xảy ra. Đối với tội phạm này, nạn nhân có thể đồng ý để người phạm tội thực hiện hành vi thỏa mãn nhu cầu tình dục hoặc hành vi của người phạm tội có thể trái ý muốn của nạn nhân. Dù nạn nhân đồng ý với hành vi của người phạm tội hay không thì cũng không ảnh hưởng đến việc người phạm tội phải chịu trách nhiệm về tội danh giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
3. Các tình tiết định khung hình phạt cụ thể
a) Phạm tội 02 lần trở lên.
Theo Khoản 2 Điều 4 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dực người dưới 18 tuổi quy định:
Phạm tội 02 lần trở lên là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội từ 02 lần trở lên nhưng chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
b) Đối với 02 người trở lên.
Đây là trường hợp người phạm tội cùng thực hiện hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác đối với 02 người trở lên từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi.
c) Có tính chất loạn luân.
Theo Khoản 1 Điều 4 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dực người dưới 18 tuổi quy định:
Có tính chất loạn luân là một trong các trường hợp sau đây:
– Phạm tội đối với người cùng dòng máu về trực hệ, với anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha;
– Phạm tội đối với cô ruột, dì ruột, chú ruột, bác ruột, cậu ruột, cháu ruột;
– Phạm tội đối với con nuôi, bố nuôi, mẹ nuôi;
– Phạm tội đối với con riêng của vợ, con riêng của chồng, bố dượng, mẹ kế;
Đọc thêm: điều 318 bộ luật hình sự 2015
– Phạm tội đối với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể.
d) Làm nạn nhân có thai.
Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi mà làm nạn nhân có thai là do hành vi giao cấu của người phạm tội mà nạn nhân có thai, tức là cái thai của nạn nhân là kết quả của việc giao cấu giữa người phạm tội với nạn nhân. Nếu nạn nhân tuy có bị hiếp dâm nhưng việc nạn nhân có thai lại là kết quả của việc giao cấu giữa nạn nhân với người khác thì người phạm tội hiếp dâm không phải chịu tình tiết “làm nạn nhân có thai”.
đ) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên.
Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích, mức độ rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.
Đây là trường hợp người phạm tội ngoại trừ thực hiện hành vi xâm hại tình dục nạn nhân mà còn xâm hại đến sức khỏe của nạn nhân, gây thương tích ở mức đáng kể cho nạn nhân.
e) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
Người phạm tội và người bị hại trong trường hợp này phải có mối quan hệ, trong đó người phạm tội có nghĩa vụ đối với người bị hại. Nghĩa vụ này xuất phát từ quan hệ huyết thống như bố mẹ đối với con cái, quan hệ giáo dục như thầy giáo đối với học sinh, quan hệ chữa bệnh như thầy thuốc đối với bệnh nhân,…
f) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
Người phạm tội biết mình nhiễm HIV mà vẫn cưỡng dâm, tức là cố ý lây truyền HIV cho người khác bằng hành vi giao cấu, làm cho tính chất và mức độ của tội phạm nguy hiểm hơn nhiều so với trường hợp giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác theo quy định tại Khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự.
4. Hình phạt đối với người phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Điều 145 Bộ luật Hình sự quy định 04 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:
– Khung hình phạt phạt tù từ 01 năm đến 05 năm trong trường hợp người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Theo Điều 9 Bộ luật hình sự, tội phạm này thuộc loại tội phạm nguy hiểm.
– Khung hình phạt phạt tù từ 03 năm đến 10 năm áp dụng khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Có tính chất loạn luân; làm nạn nhân có thai; gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; phạm tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở lên; tái phạm nguy hiểm. Căn cứ quy định phân loại tội phạm tại Điều 9 Bộ luật Hình sự, tội phạm này thuộc loại tội rất nghiêm trọng.
– Khung hình phạt phạt tù từ 07 năm đến 15 năm áp dụng khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
– Khung hình phạt bổ sung, người phạm tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
5. Vụ án thực tế xét xử về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Bán án số 35/2021/HSST ngày 14-5-2021 “V/v xét xử bị cáo Vi Văn Th về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” của Tòa án Nhân dân huyện Như Xuân tỉnh Thanh Hóa.[1]
Vào khoảng tháng 8/2019, trong thời gian đi nghĩa vụ quân sự thông qua mạng xã hội Facebook, Vi Văn Th, sinh năm 1999, trú tại thôn L, xã Q, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá có quen biết và nảy sinh tình cảm với Ngân Thị Đ, sinh ngày 04/12/2004, trú tại thôn T, xã P, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Đến tháng 02/2020,Th ra quân về địa phương, Th hẹn gặp Đ đi uống nước và nói chuyện, sau đó cả hai đi về. Đến ngày 08/3/2020 Th rủ Đ lên nhà mình tại thôn L, xã Q, huyện Như Xuân chơi, Đ đồng ý, Th lấy xe máy chở Đ về nhà mình. Khi đến nơi, Đ ngồi chơi và ở lại ăn cơm cùng gia đình Th. Sau khi ăn cơm xong, Th lấy xe máy chở Đ đi chơi quanh xã Q, huyện Như Xuân. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, Th chở Đ quay về nhà Th để ngủ, Th dựng xe ở ngoài, cả hai đi vào nhà, lúc này bố mẹ của Th đã đi ngủ, Th dẫn Đ vào giường ở chính giữa gian nhà, Đ ngồi lên giường bấm điện thoại còn Th mắc màn, một lúc sau Th bảo Đ nằm xuống ngủ, cả hai nằm nói chuyện, sau đó Th nằm nghiêng lại ôm Đ từ phía sau và hỏi: “cho anh nhé”, Đ trả lời: “vâng”, Th tiếp tục hỏi: “cho anh nhé”, Đ trả lời: “Vâng” thì Đ quay người lại, Th và Đ ôm hôn nhau, một lúc sau thì Th và Đ tự cởi quần áo, Đ nằm ngửa còn Th nằm phía trên, Th bắt đầu quan hệ tình dục với Đ được khoảng 04 phút thì xuất tinh vào âm hộ của Đ, sau khi quan hệ tình dục xong Th và Đ tự mặc quần áo và đi ngủ. Ngủ được khoảng 03 tiếng (tức là rạng sáng ngày 09/3/2020) Th và Đ tỉnh dậy, tiếp tục quan hệ tình dục một lần nữa, sau đó cả hai mặc quần áo lại rồi ngủ. Đến sáng ngày 09/3/2020, Th chở Đ về nhà. Sau đó, Th đi làm, đến cuối tháng 9/2020 Đ thông báo có thai thì Th đã cùng gia đình đến nói chuyện với gia đình Đ và xin đón Đ về nhà tại thôn L, xã Q, huyện Như Xuân để chăm sóc, trong thời gian Đ ở nhà Th thì Th quan hệ tình dục với Đ 01 lần vào tháng 10/2020 (không nhớ ngày). Đến ngày 09/10/2020, qua công tác rà soát, thu thập dữ liệu quốc gia về dân cư, Công an xã Thanh Phong đã phát hiện Ngân Thị Đ mang thai khoảng 07 tháng nên báo cáo vụ việc đến Công an huyện Như Xuân. Ngày 10/10/2020, Th đến cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Như Xuân đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về ADN số ADN 58/2020/TTPY ngày 05/11/2020 của Trung tâm pháp y -Sở Y tế tỉnh Thanh Hoá kết luận: “Mẫu dịch thu được từ bộ phận sinh dục của Ngân Thị Đ, sinh năm 2004 có ADN nhiễm sắc thể Y, trùng khớp với ADN nhiễm sắc thể Y của Vi Văn Th”.
Ngày 11/12/2020, Ngân Thị Đ sinh con và đặt tên con là Ngân Ngọc N. Cơ quan điều tra đã tiến hành thu mẫu dịch niêm mạc miệng của cháu Ngân Ngọc N, đồng thời ra quyết định trưng cầu giám định ADN, xác định cháu Ngân Ngọc N có quan hệ huyết thống cha – con với bị can Th hay không.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về ADN số ADN 76/2020/TTPY, ngày 06/01/2021 của Truy tâm pháp y – Sở Y tế tỉnh Thanh Hóa kết luận:“Cháu Ngân Ngọc N và anh Vi Văn Th không có quan hệ huyết thống Cha -Con”.
Sau khi có kết luận giám định như trên, Cơ quan điều tra đã lấy lời khai Ngân Thị Đ và Đ đã thừa nhận: Trong thời gian yêu Vi Văn Th, vào khoảng tháng 3 năm 2020, Đ có tình cảm yêu đương và có quan hệ tình dục với Hà Văn L, sinh ngày 17/6/2003 ở thôn T, xã X, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Cơ quan điều tra đã triệu tập Hà Văn L đến Cơ quan điều tra để làm việc, tại Cơ quan điều tra Hà Văn L khai nhận: Vào khoảng tháng 02/2020 thông qua mạng xã hội Facebook, L nhắn tin và làm quen với Ngân Thị Đ, sinh năm 2004 ở thôn T, xã P, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Trong quá trình nói chuyện với nhau, hai bên nảy sinh tình cảm và L đã quan hệ tình dục với Ngân Thị Đ 02 lần trong khoảng tháng 03/2020. Lần quan hệ tình dục đầu tiên với Đ là tại nhà bà nội của L ở thôn T, xã X, huyện Như Xuân, lần thứ hai là tại nhà chị Lô Thị H ở thôn T, xã P, huyện Như Xuân. Trong các lần L quan hệ tình dục với Đ thì Đ đều đồng ý, tự nguyện, L không đe dọa, ép buộc, đánh đập gì. Tại các lần quan hệt ình dục với Đ, L đều xuất tinh vào trong âm đạo của Đ. Việc L và Đ quan hệ tình dục với nhau chỉ có hai người biết, những người khác không ai hay biết gì.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về ADN số ADN 14/2021/TTPY ngày 02/02/2021 của Trung tâm pháp y -Sở Y tế tỉnh Thanh Hóa kết luận: “Anh Hà Văn L, sinh năm 2003 ở thôn T, xã X, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa và cháu Ngân Ngọc N có quan hệ huyết thống Cha -Con”.
Đối với Hà Văn L có hành vi quan hệ tình dục với Ngân Thị Đ, tại thời điểm L quan hệ tình dục với Đ thì L mới 16 tuổi 03 tháng, chưa đủ 18 tuổi. Do đó hành vi quan hệ tình dục với Ngân Thị Đ của Hà Văn L chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại Điều 145 Bộ luật Hình sự nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự đối với Hà Văn L.
Về hành vi của Vi Văn Th, Tòa án sơ thẩm nhận định:
Do có mối quan hệ tình cảm nam nữ, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của Ngân Thị Đ, sinh ngày 04/12/2004 nên Vi Văn Th đã thực hiện hành vi giao cấu với Đ 03 lần vào các ngày 08, 09/3/2020 và một ngày tháng 10/2020 tại nhà của Th ở thôn L, xã Q, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Th giao cấu với Đ từ khi Đ 15 tuổi 03 tháng 04 ngày.
Bị cáo Vi Văn Th là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi giao cấu với Ngân Thị Đ là trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm và sức khỏe của người phụ nữ, người chưa thành niên, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện nhiều lần. Vì vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 145 của Bộ luật Hình sự.
Hành vi giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi của bị cáo Vi Văn Th là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội. Xuất phát từ ham muốn và dục vọng thấp hèn, bị cáo đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết, chưa hoàn Th về nhận thức của Ngân Thị Đ để quan hệ tình dục với bị hại. Bị cáo không những xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và sức khỏe của người phụ nữ, người chưa thành niên, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân.
Vì lý do đó, Tòa án nhân dân huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa tuyên bố bị cáo Vi Văn Th phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, xử phạt bị cáo 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.
Luật Hoàng Anh
[1] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta712055t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập 17/6/2021.
Đọc thêm: Luật bảo hiểm xã hội mới nhất