TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 01/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ LY HÔN
Xem thêm: Bản án ly hôn
Ngày 06 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 340/2020/TLST-HNGĐ ngày 12/10/2020 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lường Thị L, sinh năm 1984.
Địa chỉ: Số nhà xxx, tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng..
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1972.
Địa chỉ: Số nhà xxx, tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng..
(Các đương sự có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai chị Lường Thị L trình bày:
Năm 2004, chị xây dựng gia đình với anh Nguyễn Văn D, trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện L. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận đến cuối năm 2018 thì nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng có quá nhiều khác biệt, bất đồng về tính cách, lối sống, quan điểm không hòa hợp, vợ chồng không có tiếng nói chung, từ đó vợ chồng tạo ra khoảng cách, không còn quan tâm đến nhau, anh D thường xuyên uống rượu và xúc phạm chị. Vợ chồng đã nhiều lần nói chuyện để hàn gắn tình cảm nhưng không được. Hiện nay vợ chồng đang sống ly thân. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể hàn gắn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn D.
Về con chung: Chị xác định có một con chung là Nguyễn Thanh B, sinh ngày 11/02/2009. Hiện nay con đang ở cùng với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Chị yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con là 2.000.000đ/tháng.
Về tài sản chung: Chị L đề nghị vợ chồng tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Về nợ chung: Chị L xác định có nợ của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, chi nhánh tỉnh Lâm Đồng, phòng giao dịch L số tiền 10.000.000 đồng, nợ vợ chồng ông Đỗ Ngọc P, bà Ngô Thị P số tiền 120.000.000 đồng và nợ ông Nguyễn Văn T số tiền là 50.000.000 đồng. Khi ly hôn, chị không yêu cầu giải quyết về nợ chung.
Tại bản tự khai anh Nguyễn Văn D trình bày:
Anh D và chị L xây dựng gia đình với nhau vào năm 2004, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được 14 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh cũng có ra ngoài đi uống rượu say sỉn, khi về nhà thì trong lúc nóng giận anh có đánh chị L. Tuy nhiên, mâu thuẫn vẫn chưa đến mức trầm trọng. Nay chị L muốn ly hôn với anh thì anh không đồng ý ly hôn vì hiện nay con còn nhỏ nên anh muốn cố gắng tìm cách để cải thiện tình cảm gia đình và muốn vợ chồng về sống đoàn tụ cùng nhau.
Tham khảo thêm: Thủ tục đăng ký kết hôn tại tphcm
Về con chung: Anh D xác định vợ chồng có một con chung là Nguyễn Thanh B, sinh ngày 11/02/2009. Khi ly hôn anh yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, anh không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Anh đề nghị vợ chồng tự thỏa thuận giải quyết và không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Về nợ chung: Anh D xác định có nợ của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, chi nhánh tỉnh Lâm Đồng, phòng giao dịch L số tiền 10.000.000 đồng, nợ vợ chồng ông Đỗ Ngọc P, bà Ngô Thị P số tiền 120.000.000 đồng và nợ ông Nguyễn Văn T số tiền là 50.000.000 đồng. Khi ly hôn, chị không yêu cầu giải quyết về nợ chung.
Tòa án đã tiến hành mở phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, các đương sự không ý kiến thắc mắc gì về mặt chứng cứ nhưng không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa, chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị được ly hôn với anh D; về con chung chị L yêu cầu được nuôi con; về vấn đề cấp dưỡng nuôi con thì chị không yêu cầu nữa mà tùy anh D thực hiện trách nhiệm của người làm cha; về tài sản chung và nợ chung chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn anh D trình bày ý kiến nếu chị L cương quyết ly hôn thì anh cũng chấp nhận; về con chung anh D cũng có nguyện vọng được nuôi con nhưng anh tôn trọng nguyện vọng của con, nếu con không muốn ở với anh thì anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo quy định; về tài sản chung và nợ chung anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị Lường Thị L. Về con chung, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao con là Nguyễn Thanh B, sinh ngày 11/02/2009 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục, anh D phải cấp dưỡng nuôi con là 1.000.000đ/tháng. Về tài sản chung và nợ chung đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này. Đồng thời, chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn và anh D phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lường Thị L và anh Nguyễn Văn D xây dựng gia đình với nhau vào năm 2004, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 10/8/2004. Việc kết hôn của chị L và anh D tuân theo các điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 9 và đảm bảo thẩm quyền đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 12 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Cuộc sống chung của vợ chồng không được hòa thuận hạnh phúc nên chị L làm đơn xin ly hôn. Xét thấy, vợ chồng chị L, anh D phát sinh mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng lại thường hay xúc phạm nhau. Hơn nữa anh D cũng xác định bản thân anh cũng có uống rượu về nóng nảy và có đánh vợ, tuy nhiên sau này anh có thay đổi nhưng chị L lại không tạo cơ hội để vợ chồng về sống đoàn tụ mà bỏ ra ngoài sống nên tình cảm vợ chồng không cải thiện được. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh mâu thuẫn vợ chồng và do không tìm được biện pháp để cải thiện tình cảm nên hai vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 7 năm 2020 cho đến nay. Hơn nữa, qua xác minh người thân của anh D thì được biết mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không còn khả năng để cải thiện và tại phiên tòa anh D cũng đồng ý ly hôn với chị L. Vì vậy, nếu cứ tiếp tục duy trì tình trạng hôn nhân như hiện nay cũng không mang lại hạnh phúc cho các đương sự do mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cần chấp nhận đơn xin ly hôn của chị L, xử cho chị Lường Thị L và anh Nguyễn Văn D được ly hôn là hoàn toàn phù hợp.
[2] Về con chung:
[2.1] Chị L và anh D có một con chung là Nguyễn Thanh B, sinh ngày 11/02/2009. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, chị L đề nghị được nuôi con chung, còn anh D tôn trọng theo nguyện vọng của con chung cháu muốn ở với ai thì anh cũng đống ý. Xét thấy cháu Nguyễn Thanh B hiện nay đã trên 7 tuổi và có nguyện vọng ở với mẹ. Hơn nữa, từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay cháu vẫn sống ổn định với chị L. Vì vậy, căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, giao con chung là Nguyễn Thanh B, sinh ngày 11/02/2009 cho chị Lường Thị L có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của con.
[2.2] Về việc cấp dưỡng nuôi con, tại phiên tòa chị L và anh D thống nhất thỏa thuận là anh D cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ một tháng. Xét thấy, việc thỏa thuận mức cấp dưỡng nuôi con của các đương sự là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên cần ghi nhận, buộc anh D có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ/tháng là phù hợp. Thời gian cấp dưỡng nuôi con được tính kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật trở đi cho đến khi nghĩa vụ cấp dưỡng được chấm dứt theo quy định của pháp luật.
[3] Về tài sản chung: Chị L và anh D xác định tự thỏa thuận và không yêu cầu gì nên không đặt ra để xem xét.
[4] Về nợ chung: Chị L và anh D xác định có nợ của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, chi nhánh tỉnh Lâm Đồng, phòng giao dịch L số tiền 10.000.000 đồng, nợ vợ chồng ông Đỗ Ngọc P, bà Ngô Thị P số tiền 120.000.000 đồng và nợ ông Nguyễn Văn T số tiền là 50.000.000 đồng. Khi ly hôn, chị L và anh D đều thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết số nợ trên và trong quá trình giải quyết vụ án chị L đã trả nợ cho Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, phòng giao dịch Lâm Hà và Ngân hàng cũng xác nhận điều này, không có yêu cầu gì. Đồng thời, các chủ nợ là vợ chồng ông P, bà P và ông Trung cũng có văn bản không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này mà để họ tự thỏa thuận với nhau nên không xem xét. Nếu sau này các bên phát sinh tranh chấp và có đơn khởi kiện thì sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ án kiện dân sự khác theo thủ tục chung.
[5] Về án phí:
Chị Lường Thị L phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.
Đọc thêm: Phân chia tài sản khi ly hôn
Anh Nguyễn Văn D phải chịu 300.000đ án phí về nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
– Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 203; khoản 1 Điều 227; Điều 235; Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự:
– Căn cứ Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; Điều 110; Điều 116 và Điều 117 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:
– Căn cứ điểm a khoản 5; khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử :
1. Chấp nhận đơn ly hôn của chị Lường Thị L, xử cho chị Lường Thị L và anh Nguyễn Văn D được ly hôn.
2. Về con chung:
Giao con chung là Nguyễn Thanh B, sinh ngày 11/02/2009 cho chị Lường Thị L có trách nhiệm trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của con. Anh Nguyễn Văn D có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con với số tiền 1.000.000 đồng/tháng (Một triệu đồng trên một tháng). Thời gian cấp dưỡng nuôi con kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật trở đi cho đến khi nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt theo quy định của pháp luật.
Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Về án phí:
Chị Lường Thị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) chị L đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0007773 ngày 12/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Chị Lường Thị L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
Anh Nguyễn Văn D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về nghĩa vụ cấp dưỡng.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 06/01/2021) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Đọc thêm: Muốn ly hôn nhưng thương con