logo-dich-vu-luattq

Tội mua bán trái phép hóa đơn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 81/2017/HSST NGÀY 06/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP HÓA ĐƠN

Xem thêm: Tội mua bán trái phép hóa đơn

Năm 2010, Công ty N có mua, bán hàng hóa với Công ty H do PhùngTrọng T là Giám đốc. Từ ngày 12 tháng 4 năm 2012 đến ngày 25 tháng 11 năm2012, Lê Văn T đã thỏa thuận bán cho Phùng Trọng T 09 tờ hóa đơn Giá trị gia tăng với doanh số tiền hàng trong 09 tờ hóa đơn trên là: 10.862.219.543 đồng,tiền thuế Giá trị gia tăng là: 1.086.221.954 đồng, tổng tiền hàng và tiền thuế Giá trị gia tăng là: 11.948.441.497 đồng. Quá trình mua, bán đều diễn ra tại xưởng sản xuất của Công ty H ở thị trấn G, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc.Việc thỏa thuậnmua, bán chỉ có T và T biết. Qua việc bán hóa đơn trên, T thu tiền bán là 3% doanh và hưởng lợi số tiền là: 300.000.000 đồng. Công ty H sử dụng các tờ hóa đơn này hợp thức hàng hóa đá, cát, gạch công trình, kê khai thuế tại Chi cụcthuế thành phố V. Tháng 6 tháng 2013, Công ty H đã khai bổ sung, điều chỉnh thuế Giá trị gia tăng kỳ tính thuế tháng 11 năm 2012 (điều chỉnh tăng số thuếphải nộp) ghi trong 04 tờ hóa đơn Giá trị gia tăng với tổng doanh số là:5.228.028.626 đồng, tổng tiền thuế Giá trị gia tăng là 522.802.863 đồng. Đối với05 tờ hóa đơn còn lại, Công ty H được khấu trừ thuế với tổng số tiền là:563.419.091 đồng.

Đọc thêm: Khi thay đổi địa chỉ trên hóa đơn

Sau đó, S chỉ đạo Trần Thị H (kế toán Công ty P) trực tiếp giao dịch với T đểmua hóa đơn Giá trị gia tăng, H cung cấp số liệu để T xuất hóa đơn. Đầu tháng10 năm 2012, T đến trụ sở Công ty P giao cho H 04 tờ hóa ghi khống hàng hóa với tổng doanh số tiền hàng là: 741.032.666 đồng, tiền thuế Giá trị gia tăng là:74.103.266 đồng, tổng tiền hàng và tiền thuế Giá trị gia tăng là: 815.135.932 đồng, H trả T số tiền 63.000.000 đồng. Công ty P sử dụng 04 tờ hóa đơn nói trên hợp thức hàng hóa gỗ, nhôm kính, kê khai thuế tại Chi cục thuế thành phố V, kỳtính thuế tháng 9 năm 2012. Ngày 26 tháng 6 năm 2013, Công ty P nộp tờ khai bổ sung, điều chỉnh tờ khai thuế tháng 9 năm 2012, giảm thuế Giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ, số tiền: 74.103.266 đồng.

Đầu năm 2012, Công ty D mua gạch của cá nhân, không có hóa đơn đầu vào nên Nguyễn Văn N là Giám đốc Công ty D liên hệ với Lê Văn T để mua hóa đơn. N và T thống nhất giá mua, bán hóa đơn là 8% doanh số, N cung cấp số liệu để T bán 01 tờ hóa đơn ghi khống hàng hóa. Sau đó, N chỉ đạo Phạm Thị Bích H (kế toán Công ty D) đến gặp T. T giao cho H 01 tờ hoá đơn Giá trị gia tăng với doanh số tiền hàng là: 129.545.454 đồng, tiền thuế Giá trị gia tăng là:12.945.546 đồng, tổng tiền hàng và tiền thuế Giá trị gia tăng là: 142.500.000đồng và nhận của H số tiền 10.000.000 đồng. Công ty D sử dụng tờ hóa đơn trên kê khai thuế tại Chi cục thuế huyện M, kỳ tính thuế tháng 5 năm 2012 và được khấu trừ số tiền là: 12.945.546 đồng.

Năm 2011, Công ty B xây dựng công trình cổng đình xã L, huyện M do ông Nguyễn Xuân N là Phó Giám đốc Công ty được giao phụ trách. Do thiếu hóa đơn, chứng từ đất nên N chỉ đạo Vũ Thị D (kế toán Công ty B) liên hệ với Nguyễn Thị T (Giám đốc Công ty M) để mua hóa đơn. D cung cấp số liệu, nhờ T mua hóa đơn với giá 10% doanh số. Sau đó, T thỏa thuận mua hóa đơn của T với giá 8% doanh số. T đồng ý bán và trực tiếp ghi 01 tờ hóa đơn Giá trị gia tăng ghi khống hàng hóa với doanh số tiền hàng là: 85.494.000 đồng, tiền thuế Giá trị gia tăng là: 8.549.000 đồng, tổng tiền hàng và tiền thuế Giá trị gia tăng là: 94.043.400 đồng đưa cho T. Sau khi nhận hoá đơn, T trả T 6.800.000 đồng. Tgiao tờ hóa đơn trên cho D và nhận của D 8.500.000 đồng (T được hưởng lợi số tiền 1.700.000 đồng). Công ty B sử dụng tờ hóa đơn này để kê khai thuế tại Chicục thuế huyện Y, kỳ tính thuế tháng 12 năm 2011 và được khấu trừ số tiền là:8.549.000 đồng.

Tham khảo thêm: Hành vi mua – bán hóa đơn bị xử lý thế nào?

Đối với Nguyễn Thị L là người cung cấp hàng hóa cho Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng H. Thông qua Hoàng Thị Việt H, L mua 01 tờ hóa đơn ghi khống hàng hóa của Công ty N với doanh số là: 130.000.000 đồng, thuế Giá trị gia tăng là: 13.000.000 đồng để giao cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn xây dựng H, L hưởng lợi số tiền 1.950.000 đồng. Ngày 31 tháng 8 năm 2017 L đã nộp số tiền trên khắc phục hậu quả.

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Lê Văn T phải chịu200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Tìm hiểu thêm: Cách viết hóa đơn bán hàng cho khách lẻ

quantri

quantri

Bài viết mới

Nhận tin mới nhất từ chúng tôi !