Chế định về án treo trong pháp luật hình sự.
Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù.
Xem thêm: án treo trong luật hình sự việt nam
1. Nhận thức về án treo.
Một trong những Sắc lệnh do Chủ tịch Hồ Chí minh ký ban hành trong thời gian từ ngày 02/9/1945 đến 13/12/1946, có Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 về việc lập Toà án Quân sự ở Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ và quy định quyền hạn xét xử của các Toà án đó (viết tắt Sắc lệnh 33C). Mà theo đó, tại khoản 4 Điều IV của Sắc lệnh này có quy định: “Nếu có những lý do chính đáng khoan hồng vì ít tuổi, vì biết hối quá, vì lầm lẫn, v.v…, thì toà án có thể cho tội nhân được hưởng án treo.
Nghĩa là bản án làm tội tuyên lên, nhưng không thi hành; nếu trong năm năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân không bị Toà án quân sự làm tội một lần nữa về việc mới thì bản án đã tuyên sẽ huỷ đi, coi như là không có; nếu trong hạn năm năm ấy, tội nhân bị kết án một lần nữa trước Toà án quân sự thì bản án treo sẽ đem thi hành.”. Tiếp đến tại Điều 10 của Sắc lệnh số 21 ngày 14/02/1946 về tổ chức các Tòa án quân sự của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (viết tắt Sắc lệnh 21), có quy định: “Khi phạt tù tòa có thể cho tội nhân được hưởng án treo nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản án xử treo sẽ tạm đình việc thi hành. Nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội mhân không bị tòa án quân sự làm tội một lần nữa về một việc mới, thì bản án đã tuyên sẽ hủy đi, coi như không có. Nếu trong 5 năm ấy, tội nhân bị kết án một lần nữa trước một tòa án quân sự thì bản án treo sẽ đem thi hành.”. Từ những quy định trích dẫn trên có thể thấy, nội dung trong hai Sắc lệnh trên đều có quy định về án treo, nhưng việc giải thích về án treo có sự khác nhau, cụ thể, tại Sắc lệnh số 21, mà theo đó, án treo được giải thích: Án treo là tạm đình việc thi hành hình phạt tù có điều kiện đối với người được hưởng án treo; Điều kiện tạm đình việc thi hành hình phạt tù: Trong thời hạn năm năm bắt đầu từ ngày tuyên án mà người được hưởng án treo không bị kết án về tội mới. Như vậy, nếu như trong quy định tại Điều IV của sắc lệnh 33C thì án treo được giải thích là không thi hành hình phạt tù có điều kiện. Còn trong quy định tại Sắc lệnh 21, thì án treo là tạm đình chỉ việc thi hành hình phạt tù có điều kiện.
Kế đến, tại Nghị quyết số 02HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS (viết tắt Nghị quyết 02/HĐTP ngày 05/01/1986) có giải thích án treo, mà theo đó “án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện”. Sau đó, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01-HĐTP ngày 18/10/1990 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS (viết tắt Nghị quyết số 01-HĐTP ngày 18/10/1990) có giải thích về án treo: Án treo là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Gần đây nhất, tại Điều 1 Nghị quyết số 01/2013/NQ- HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng Điều 60 BLHS về án treo (viết tắt Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013), giải thích: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện…”. Đây là văn bản đang còn hiệu lực áp dụng.
Xoay quanh việc giải thích về án treo tại Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 có ý kiến cho rằng, nếu đối chiếu với quy định của một số văn bản pháp luật hiện hiện hành, như BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS), Luật Thi hành án hình sự năm 2010 (Luật THAHS) thì hoàn toàn không tìm thấy cụm từ “biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù” mà chỉ có cụm từ quy định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt (Điều 57 BLHS); miễn chấp hành toàn bộ hình phạt, miễn chấp hành hình phạt tù còn lại (khoản 1 Điều 268 BLTTHS); Thủ tục miễn chấp hành hình phạt tù (Điều 34 Luật THAHS), theo nội dung quy định tại các điều luật vừa nêu, nếu người phải chấp hành hình phạt tù có đủ điều kiện do pháp luật quy định có thể được miễn việc chấp hành hình phạt tù đối với họ, mà không quy định về biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù. Hơn nữa tại Điều 60 BLHS hiện hành và ngay cả Điều 65 BLHS năm 2015 sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 sắp tới cũng không ghi nhận việc cho hưởng án treo là biện pháp miễn chấp hành. Như vậy theo quan điểm của tác giả, sẽ là phù hợp hơn, vừa bảo đảm tính đồng bộ với các nội dung quy định của các luật có liên quan vừa thống nhất trong hệ thống pháp luật, nếu án treo được giải thích theo tinh thần Nghị quyết số 01-HĐTP ngày 18/10/1990: “Án treo là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện..”
2. Tính thời gian thời gian thử thách của án treo.
Hiện theo quy định tại Điều 4 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP, thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo như sau:
“Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án đầu tiên cho hưởng án treo; cụ thể như sau:
1. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.
2. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm cũng cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.
3. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án phúc thẩm.
4. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Tòa án cấp giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại và Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
5. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, nhưng bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm bị hủy để điều tra lại và sau đó xét xử sơ thẩm lại, xét xử phúc thẩm lại, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm hoặc tuyên án phúc thẩm lần sau theo hướng dẫn tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này.”
Từ nội dung hướng dẫn trên có thể thấy, với trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Như vậy là không công bằng giữa trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian bản án mà họ được hưởng án treo chưa có hiệu lực pháp luật với trường hợp người hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian bản án mà họ được hưởng án treo đã có hiệu lực pháp luật. Vì cả hai trường hợp này, đều có chung một hậu quả pháp lý là người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù mà Tòa án đã cho hưởng án treo và hình phạt đối với tội mới đã phạm.
Việc người được hưởng án treo, phạm tội mới trong thời gian mà bản án mà họ được hưởng án treo chưa có hiệu lực pháp luật lại buộc họ phải chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo là không đúng với tinh thần khoản 1 Điều 255 BLTTHS năm 2003, quy định về những bản án và quyết định của Tòa án được thi hành là: “… những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật…”
Từ cách tiếp cận vấn đề như vậy, theo tác giả có hai vấn đề đáng quan tâm sau: Một là,Ý nghĩa về thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo; Hai là, việc người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian bản án của Tòa án tuyên buộc họ hưởng án treo chưa có hiệu lực pháp luật, nhưng lại bắt buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của tội mới mà họ đã phạm và hình phạt tù của bản án được hưởng án treo. Vậy, liệu có trái với quy định tại khoản 1 Điều 255 BLTTHS và khoản 1 Điều 2 Luật THAHS không?
Tham khảo thêm: Nợ bao nhiêu tiền thì bị truy tố hình sự
Trước hết, về ý nghĩa của thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo. Theo quy định tại Điều 60 BLHS hiện hành, người được Tòa án cho hưởng án treo phải chấp hành một thời gian thử thách, ít nhất là một năm, nhiều nhất năm năm. Khoản 1 Điều 60 BLHS quy định:“ Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.”. Theo tác giả, thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo là thời gian Nhà nước thực hiện sự kết hợp giữa trừng trị với giáo dục đối với người phạm tội bằng hình thức người được hưởng án treo tự sửa chữa lỗi lầm, tự cải tạo mình bằng cách tích cực học tập, lao động, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật dưới sự giám sát , giáo dục của nhân dân, chính quyền địa phương, của cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Mặt khác, thời gian thử thách cũng là thời gian có ý nghĩa về đấu tranh phòng ngừa tội phạm đối với người được hưởng án treo và đối với phòng ngừa tội phạm chung trogn xã hội. Cụ thể:
– Đối với người được hưởng án treo: Nếu họ tích cực học tập, lao động nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, không phạm tội mới thì họ sẽ không phải chấp hành hình phạt tù được hưởng án treo. Hoặc vừa không phải chấp hành hình phạt tù nhưng được hưởng án treo, đồng thời, còn có thể được xem xét rút ngắn thời gian thử thách khi họ có đủ điều kiện do pháp luật quy định. Còn trường hợp họ không tự cải tạo thành người tốt, mà lại phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù được hưởng án treo và hình phạt của tội mới đã phạm.
– Đối với công tác phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội: Nói đến công tác phòng ngừa tội phạm là nói đến hoạt động phòng ngừa ngay đối với chính bản thân người đang hoặc sẽ có ý định phạm tội. Cũng không thể phủ nhận rằng, thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy, quá trình người được hưởng án treo tự cải tạo trong thời gian thử thách tại địa phương nơi cư trú, nơi làm việc, học tập,…có tác động rất nhiều đến người đang hoặc sẽ có ý định phạm tội. Nghĩa là, họ sẽ tự nhận biết được rằng, nếu phạm tội mà được Tòa án cho hưởng án treo thì cũng đã tự đánh mất mình trong khoảng thời gian thử thách. Từ đó, họ đoạn tuyệt hẳn với ý định “xấu” mà họ định thực hiện và thông qua sự thức tỉnh, hướng thiện đó sẽ có tác động tích cực lôi kéo thêm những người khác có thể là bạn bè, người thân của họ, do vậy, sẽ rất có ý nghĩa hơn gấp nhiều lần nếu so với việc phải bắt người phạm tội đi chấp hành án phạt tù..
Tuy nhiên vấn đề được nhiều người quan tâm, với quy định hiện hành về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thánh án treo, có trái với Điều 255 BLTTHS không? Bởi có ý kiến cho rằng: Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách nhưng thời điểm phạm tội mới đang trong thời gian bản án chưa có hiệu lực pháp luật mà buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù được hưởng án treo và hình phạt của tội mới phạm là không đúng với quy định tại khoản 1 Điều 255 BLTTHS và khoản 1 Điều 2 Luật THAHS. Về vấn đề này, hiện có các quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất:
Rõ ràng sẽ rất khó lý giải khi đề cập đến quy định tại Điều 3, Điều 9 BLTTHS và khoản 1 Điều 2 Luật THAHS, đó là: Phải bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, mà theo đó, mọi hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tuân thủ theo quy định của BLTTHS, cũng như người bị kết án chỉ phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, việc mặc nhiên coi bản án kết án một người bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo có hiệu lực từ khi tuyên án, nhưng bản án chưa có hiệu lực pháp luật (chưa hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 234 BLTTHS) và điều đáng nói hơn nếu cũng trong thời gian đó (thời hạn bản án chưa có hiệu lực pháp luật) họ phạm tội mới thì buộc phải chấp hành hình phạt của bản án mới xét xử về tội họ đã phạm cộng với mức hình phạt tù mà họ được hưởng án treo của bản án trước là không công bằng, là vi phạm nguyên tắc bảo đảm tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, cũng như người bị kết án phải chịu mức hình phạt khi bản án kết tội của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật, theo quy định tại Điều 9 BLTTHS và cả khoản 1 Điều 2 Luật THAHS. Có lẽ với trường hợp, một người bị Tòa án phạt tù nhưng cho hưởng án treo, nhưng trong thời gian chờ bản án có hiệu lực pháp luật họ lại phạm tội mới là trường hợp “hiếm gặp”, rất ít xảy ra. Cho dù là rất ít xảy ra, nhưng thực tế có xảy ra và việc áp dụng pháp luật tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng không bảo đảm đúng quy định của BLTTHS, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là “không ổn”.
Quan điểm thứ hai:
Việc thi hành ngay quyết định về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo theo bản án sơ thẩm là không mâu thuẫn với khoản 1 Điều 255 BLTTHS cũng như quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật THAHS. Tác giả đồng tình với quan điểm này, vì: Nghiên cứu các quy định trước đây về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách: Trước ngày 01/01/1986, ngày BLHS năm 1985 có hiệu lực thi hành, án treo được thực hiện theo Sắc lệnh số 33C và Sắc lệnh số 21. Tại Điều IV của Sắc lệnh số 33C và tại Điều 10 của Sắc lệnh số 21 đều có quy định thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách của án treo là “bắt đầu từ ngày tuyên án”. Tại Điều 44 BLHS năm 1985 và Điều 60 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có quy định về án treo, nhưng đều không quy định rõ thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo. Do vậy, để thống nhất về nhận thức trong áp dụng và thi hành quy định này trong thực tiễn, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành nghị quyết; Tòa án nhân dân tối cao ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện chế định án treo, mà theo đó, thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo tính từ ngày “bản án có hiệu lực pháp luật”, nhưng cũng có văn bản hướng dẫn thời gian thử thách án treo tính từ ngày “ tuyên bản án cho hưởng án treo”. Cụ thể:
– Về hướng dẫn, thời gian thử thách án treo tính từ ngày“bản án có hiệu lực pháp luật”, được thể hiện trong nội dung các văn bản sau: Thông tư số 2308-NCPL ngày 01/12/1961 của Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS; Nghị quyết 02/HĐTP ngày 16/11/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Các hướng dẫn này sau một thời gian áp dụng đã nhận được sự phản hồi thiếu tích cực từ việc người được hưởng án treo đã phạm tội mới trong thời gian bản án chưa có hiệu lực pháp luật có chiều hướng gia tăng, nhưng Tòa án không có căn cứ để buộc họ phải chấp hành hình phạt tù được hưởng án treo, bởi Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán hướng dẫn: Thời gian thử thách án treo tính từ ngày “bản án có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, hướng dẫn này rõ ràng đã không đáp ứng được yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống và ngăn ngừa tội phạm.
Từ thực tiễn đó, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành nghị quyết hướng dẫn lại chế định án treo, trong đó có nội dung thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách. Cụ thể: Thông tư số 01-NCPL ngày 06/4/1988 của Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn bổ sung về án treo, mà theo đó, thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án treo đầu tiên. Kế đến là Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc áp dụng Điều 44 BLHS, mà theo đó, tại điểm 2 mục 2 của Nghị quyết này có ghi rõ: “..thời gian thử thách án treo tính từ ngày tuyên bản án cho hưởng án treo…”. Sau gần 20 năm áp dụng, ngày 02/10/2007, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Tại tiểu mục 6.5 mục 6 của Nghị quyết này có hướng dẫn về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án đầu tiên cho hưởng án treo.
– Về nội dung hướng dẫn về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo trong Nghị quyết số 1/HĐTP ngày 18/10/1990; Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 và Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cơ bản là giống nhau. Như vậy, hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo là quá trình nhận thức để đáp ứng tốt hơn, phù hợp hơn với yêu cầu của công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Hướng dẫn này được hiểu, trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Còn trường hợp, Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo và Tòa án cấp phúc thẩm cũng cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách cũng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo phải ghi rõ trong phần quyết định của bản án. Do đó, trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho người bị kết án hưởng án treo và trong bản án quyết định thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, thì cũng được hiểu là quyết định về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo của bản án sơ thẩm là quyết định được thi hành ngay, mặc dù bản án sơ thẩm ấy chưa có hiệu lực pháp luật. Điều này hoàn toàn có lợi cho người bị kết án.
Việc đưa ra thi hành ngay quy định trên đối với người được hưởng án treo phạm tội mới từ thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo (khoản 1 Điều 60 BLHS) cũng không có gì khác với những trường hợp được thi hành ngay quyết định của Hội đồng xét xử sơ thẩm quy định tại Điều 227 BLTTHS về trả tự do cho bị cáo.
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo tính từ ngày tuyên án đầu tiên cho hưởng án treo, trước hết nhằm đáp ứng yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời, cũng vừa thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự nhận thức biện chứng của những nhà làm luật về quy luật nhận thức của con người luôn với xu thế tiến bộ. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho người bị kết án được hưởng án treo và trong bản án sơ thẩm quyết định thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo là từ ngày tuyên án sơ thẩm, thì quyết định về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo là quyết định được thi hành ngay, dù bản án sơ thẩm đó chưa có hiệu lực thi hành. Tóm lại, việc thi hành ngay quyết định về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo theo bản án sơ thẩm là không liên quan đến khoản 1 Điều 255 BLTTHS.
Mặt khác, quan điểm này cũng được thể hiện tại Điều 363 BLTTHS năm 2015 (sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 tới đây), đó là, quy định các trường hợp bản án, quyết định của Tòa án được thi hành ngay, trong đó có trường hợp bị người phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị.
3. Có tổng hợp hình phạt tù có thời hạn với án treo.
BLHS, BLTTHS hiện hành không có điều khoản nào quy định về tổng hợp hình phạt tù có thời hạn với án treo. Khoa học pháp lý cũng không có khái niệm tổng hợp hình phạt tù có thời hạn với án treo. Khoản 5 Điều 60 BLHS quy định: “Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật này”, chứ không quy định tổng hợp hình phạt tù có thời hạn với án treo. Mặt khác, Điều 50 và Điều 51 BLTTHS cũng chỉ quy định tổng hợp hình phạt cùng loại hoặc khác loại, chứ không có quy định tổng hợp hình phạt tù có thời hạn với án treo. Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, các Thẩm phán khi gặp phải trường hợp bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách thì phần quyết định của bản án phải tuyên tách bạch rõ hai nội dung sau:
Một là, HĐXX áp dụng Khoản 5 Điều 60 BLHS, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn của bản án trước.
Tham khảo thêm: Năng lực trách nhiệm hình sự
Hai là, HĐXX áp dụng Điều 51 BLHS để tổng hợp hình phạt. Ví dụ: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 04/2009/HS-ST ngày 20/5/2009 của Tòa án quân sự Khu vực 2 – QK Z, tuyên phạt Nguyễn Văn H. một năm tù về tội trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 138 BLHS, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là hai năm kể từ ngày 20/5/2009. Kế đến, ngày 07/12/2009 H. lại phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại điểm e Khoản 2 Điều 139 BLHS. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 02/2010/HS-ST ngày 17/4/2010 Tòa án nhân dân Tp. MT, HĐXX quyết định áp dụng Điểm e Khoản 2 Điều 138 BLHS, xử phạt Nguyễn Văn H. 4 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thì trong phần quyết định của bản án cần viết như sau:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H. phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng Điểm e, Khoản 2 Điều 139 BLHS;… xử phạt Nguyễn Văn H. 4 (bốn) năm tù;
Áp dụng Khoản 5 Điều 60 BLHS buộc Nguyễn Văn H. phải chấp hành hình phạt 01 (một) năm tù của bản án số 04/2009/HS-ST ngày 20/5/2009 của Tòa án quân sự Khu vực 2 – QK Z;
Áp dụng Khoản 2 Điều 51 BLHS tổng hợp hình phạt của hai bản án, buộc Nguyễn Văn H. phải chấp hành hình phạt chung là 05 (năm) năm tù thời hạn tù tính từ ngày…
Tuy nhiên, cũng từ thực tiễn xét xử do cách viết khác nhau của mỗi thẩm phán, nên làm cho nhiều người ngộ nhận rằng có việc “tổng hợp hình phạt tù có thời hạn với án treo”.Chẳng hạn như: Áp dụng Điểm e, Khoản 2 Điều 139 BLHS;…xử phạt Nguyễn Văn H. 04 (bốn) năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tổng hợp hình phạt 01(một) năm tù nhưng cho hưởng án treo của bản án số 04/2009/HS-ST ngày 20/5/2009 của Tòa án quân sự Khu vực 2 – QK Z, buộc Nguyễn Văn H. phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày…
Tìm hiểu thêm: Sơ đồ quy trình khởi tố vụ án hình sự
Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định những trường hợp không được hưởng án treo và những trường hợp được hưởng án treo như sau:
1. Những trường hợp sau đây không cho hưởng án treo:
- Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
- Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị truy nã.
- Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách.
- Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi.
- Người phạm tội nhiều lần, trừ trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi.
- Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Tìm hiểu thêm: Sơ đồ quy trình khởi tố vụ án hình sự
2. Những trường hợp được xem xét cho hưởng án treo:
Người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Bị xử phạt tù không quá 03 năm.
- Có nhân thân tốt.
Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
- Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.
Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.
Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
- Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Tìm hiểu thêm: Sơ đồ quy trình khởi tố vụ án hình sự