Những quy định về đồng phạm không phải là tình tiết tăng nặng, cũng không phải là tình tiết định khung hình phạt, nhưng trong một số trường hợp, đồng phạm có ý nghĩa rất lớn đến việc xác định có dấu hiệu của tội phạm hay không. Từ đó cho thấy việc tìm hiểu và làm rõ vấn đề đồng phạm có ý nghĩa và tầm quan trọng rất lớn cả về lý luận và thực tiễn trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự có nhiều đối tượng tham gia.
Đồng phạm là những người cùng tham gia vào việc thực hiện một tội phạm như: cùng thực hiện tội phạm có thể là trực tiếp thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm (là người thực hành), thực hiện hành vi chủ mưu, chỉ huy, cầm đầu việc thực hiện tội phạm (là người tổ chức), người thực hiện hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm (là người xúi giục); tạo điều kiện về tinh thần hay vật chất cho người khác thực hiện tội phạm (là người giúp sức). Khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mỗi người đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi phạm tội của mình mà còn biết và mong muốn sự cùng tham gia của những người đồng phạm khác. Cùng cố ý trong đồng phạm được thể hiện trên hai phương diện về lý trí và ý chí. Về lý trí: mỗi người đồng phạm đều nhận thức được tính chất nguy hiểm đối với hành vi của mình, nhận thức được tính chất nguy hiểm của những người đồng phạm khác, thấy trước được việc gây ra hậu quả chung của hành vi phạm tội đó. Về ý chí: những người đồng phạm khi thực hiện hành vi đều mong muốn cùng thực hiện tội phạm và mong muốn hậu quả chung của tội phạm xảy ra.
Xem thêm: đồng phạm là gì
Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về đồng phạm như sau:
“Điều 17. Đồng phạm 1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. 2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. 3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. 4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành”.
Như vậy, để thoả mãn quy định về đồng phạm cần có những điều kiện sau đây:
Thứ nhất: phải từ hai người trở lên, những người này phải có đủ dấu hiệu về chủ thể của tội phạm. Đây là điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Thứ hai: cố ý cùng thực hiện một tội phạm, tức là mỗi người trong đồng phạm đều có hành vi tham gia vào việc thực hiện tội phạm, hành vi của mỗi người được thực hiện có sự liên kết với nhau, hành vi của người này hỗ trợ, bổ sung cho hành vi của người khác và ngược lại, hành vi phạm tội của mỗi người đều nằm trong hoạt động phạm tội của cả nhóm, với mục đích chung là đạt được kết quả thực hiện tội phạm. Vì vậy, sẽ không được coi là đồng phạm khi một số người đã cùng thực hiện một tội phạm và cùng một thời gian nhưng giữa những người này không có sự bàn bạc, liên hệ, ràng buộc, hỗ trợ lẫn nhau mà hành vi của từng người đều thực hiện độc lập.
1. Một số điểm mới về đồng phạm:
Tham khảo thêm: Kỹ năng ghi nhớ là gì? Làm sao để nhớ nhanh và lâu?
So với quy định của BLHS năm 1999, thì về cơ bản BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giữ nguyên các nội dung quy định về đồng phạm của BLHS năm 1999 và có một số điểm mới như sau:
Thứ nhất, về mặt kỹ thuật lập pháp thì Điều 17 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 được quy định thành 4 khoản (so với BLHS năm 1999 chỉ gồm 3 khoản), cụ thể là:
Khoản 2 Điều 20 BLHS năm 1999 quy định: “2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm” thì được sửa đổi thành khoản 3 của Điều 17 BLHS năm 2015 và có sự thay đổi về kết cấu khi quy định như sau: “3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức”
Khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999 quy định về phạm tội có tổ chức được chuyển thành khoản 2 Điều 17 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Như vậy, Điều 17 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thay đổi trật tự các khoản của Điều 20 của BLHS năm 1999 là phù hợp và đảm bảo được tính logic cả về mặt nội dung và hình thức của quy định về đồng phạm. Theo quy định của Điều 20 BLHS năm 1999 thì phạm tội có tổ chức được đặt ở vị trí sau nội dung quy định về các loại người đồng phạm. Theo chúng tôi, cách thức đặt vị trí của Điều 20 BLHS năm 1999 là chưa phù hợp. Bởi vì, trong khoa học pháp lý hình sự thì tội phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra các kế hoạch để thực hiện một tội phạm dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu. Khác với các vụ án đồng phạm trong trường hợp bình thường là chỉ cần có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm thì phạm tội có tổ chức bên cạnh phải thỏa mãn các dấu hiệu bắt buộc của một vụ án đồng phạm mà còn phải thỏa mãn dấu hiệu “câu kết chặt chẽ” giữa những người đồng phạm. Sự câu kết này theo Nghị quyết số 02/HĐTP/NQ ngày 16/11/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có thể thể hiện dưới các dạng như:
– Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội như: đảng phái, hội, đoàn phản động, băng, ổ trộm, cướp… có những tên chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội không có những tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm tội.
– Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước.
– Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần, nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm.
Đọc thêm: Thương mại là gì?
Do đó, phạm tội có tổ chức là một hình thức đặc biệt của đồng phạm. Chính vì vậy, về mặt kỹ thuật lập pháp để đảm bảo tính hợp lý về kết cấu các nội dung trong cùng một điều luật thì phạm tội có tổ chức cần được sửa đổi đặt ngay sau khái niệm về đồng phạm như quy định của Điều 17 BLHS năm 2015, là hợp lý và cần thiết.
Thứ hai, về mặt nội dung, thì Điều 17 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã bổ sung thêm nội dung “Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành” vào khoản 4 Điều 17 BLHS. Như vậy, các nội dung tại Điều 17 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về đồng phạm chỉ có một điểm mới so với Điều 20 BLHS năm 1999 là ghi nhận hành vi vượt quá của người thực hành. Chúng tôi cho rằng đây là một điểm mới và tích cực của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 khi đã khắc phục được một phần những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn xét xử đối với hành vi vượt quá của người thực hành mà BLHS năm 1999 còn hạn chế. Thực tiễn cho thấy không phải mọi trường hợp những người thực hành đều thực hiện đúng và đầy đủ các hành vi đã được thỏa thuận trước khi thực hiện tội phạm mà trên thực tế những người thực hành có thể thực hiện hành vi vượt quá yêu cầu của những người đồng phạm khác, khoa học luật hình sự gọi là hành vi vượt quá của người thực hành. Hành vi vượt quá của người thực hành là việc người thực hành tự ý thực hiện hành vi phạm tội mà những người đồng phạm khác không mong muốn, hành vi của người thực hành mà những đồng phạm khác không có ý định thực hiện. Xuất phát từ một trong các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong vụ án đồng phạm là nguyên tắc “chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện tội phạm”, nghĩa là những người đồng phạm bên cạnh việc chịu trách nhiệm chung về việc cùng thực hiện một tội phạm thì còn phải chịu trách nhiệm hình sự riêng đối với hành vi mà cá nhân người đồng phạm đó thực hiện và không có sự “Cố ý cùng” tham gia của những người đồng phạm khác. Chính vì vậy, đối với hành vi vượt quá của người thực hành thì những người đồng phạm còn lại không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người thực hành và người thực hành có hành vi vượt quá phải chịu trách nhiệm hình sự riêng về hành vi vượt quá này. Đây là một điểm mới tích cực và nổi bật về quy định đồng phạm của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 so với BLHS năm 1999. Nội dung này đã khắc phục được hạn chế lớn của BLHS năm 1999 trong việc xác định trách nhiệm hình sự đối với hành vi vượt quá của người thực hành góp phần đảm bảo nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 khi bổ sung nội dung “Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành” thì chúng tôi cho rằng quy định này cần phải được hoàn thiện hơn nữa. Đó là, khi BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về “Hành vi vượt quá” của người thực hành nhưng chưa đưa ra khái niệm hoặc cách thức xác định “Hành vi vượt quá” của người thực hành hoặc ranh giới phân định “Hành vi vượt quá” hay “ không là hành vi vượt quá” của người thực hành. Bởi vì, thực tiễn xét xử cho thấy để xác định hành vi của người thực hành đã thực hiện trong vụ án đồng phạm có phải là hành vi vượt quá hay không gặp rất nhiều khó khăn. Như phân tích trên, để xác định hành vi thực hiện là vượt quá hay không vượt quá thì phải xác định được các đồng phạm khác có cùng cố ý hoặc cùng mong muốn thực hiện hành vi đó hay không. Điều này có nghĩa rằng, ranh giới để phân biệt hành vi vượt quá hay hành vi không vượt quá phục thuộc vào việc làm rõ nhận thức và mong muốn bên trong của người đồng phạm, tức là phụ thuộc và việc xác định lỗi trong dấu hiệu chủ quan của hành vi được thực hiện. Nếu lỗi trong dấu hiệu chủ quan của hành vi đó là “cùng cố ý” thực hiện hành vi thì hành vi này được xem là hành vi vượt quá và ngược lại, nếu lỗi trong dấu hiệu chủ quan của hành vi đó là “không cùng cố ý” thực hiện hành vi thì hành vi này không được xem là hành vi vượt quá của người đồng phạm. Hơn nữa, vấn đề loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác (không phải là người thực hành như: người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức) trong vụ án có đồng phạm, không chỉ có liên quan đến hành vi vượt quá của người thực hành mà còn liên quan đến nhiều chế định khác như: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, xác định lỗi, các điều kiện của đồng phạm và phạm tội có tổ chức.v.v… nhưng hành vi vượt quá của người thực hành lại liên quan trực tiếp đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người đồng phạm khác, nên có thể nói hành vi vượt quá của người thực hành chính là điều kiện (căn cứ) để loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác.
2. Kiến nghị, đề xuất:
Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi có những kiến nghị, đề xuất tới Hội đồng Thẩm phán TANDTC như sau:
– Khi có hướng dẫn liên quan đến đồng phạm cần cụ thể, rõ ràng về các tiêu chí xác định “Hành vi vượt quá” của người thực hành trong vụ án đồng phạm để đảm bảo sự thống nhất trong quá trình áp dụng khoản 4 Điều 17 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
– Cần có hướng dẫn cụ thể mới phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh phạm tội xảy ra trong môi trường xã hội hiện tại và phù hợp với BLHS hiện hành để thống nhất đánh giá, áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 17 BLHS, sửa đổi bổ sung năm 2017 về phạm tội có tổ chức.
Tác giả bài viết: Ngô Văn Khôi – Tòa án nhân dân huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam
Tham khảo thêm: Chứng khoán là gì? Đặc điểm của chứng khoán