Nội dung chính
1. Quy định chung về xét xử phúc thẩm
Phúc thẩm được áp dụng đối với các vụ án dân sự, hình sự, lao động, kinh tế, hành chính. Phúc thẩm là một hoạt động tố tụng, trong đó Toà án cấp trên tiến hành kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cự của bản án, quyết định do Toà án cấp sơ thẩm xử mà bị kháng cáo, kháng nghị, kiểm tra tính hợp pháp là kiểm tra việc áp dụng pháp luật của toà sợ thẩm khi ra bản án, quyết định đó, bao gồm cả pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng; kiểm tra tính có căn cứ của bản án, quyết định là kiểm tra những chứng cứ đã thu thập được có phù hợp với thực tế không, kết luận của bản án/quyết định có phù hợp với hồ sơ vụ án hay không.
Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu là các toà án cấp phúc thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án nhân cấp huyện, Toà án quân sự cấp khu vực. Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao, Toà án quân sự trung ương là Toà án cấp phúc thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu. Đối với các vụ án hình sự, Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định:
Xem thêm: Phúc thẩm là gì
1) Không chấp thuận những kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm;
2) Sửa bản án sơ thẩm;
3) Huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại;
4) Huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Mục đích của phúc thẩm là nhằm sửa chữa, khắc phục những sai lầm của Toà án cấp sơ thẩm khi xét xử và ra bản án/quyết định, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Qua đó còn kiểm tra chất lượng xét xử của Toà án cấp sơ thẩm, đúc rút kinh nghiệm, uốn nắn những sai lầm trong công tác xét xử và có hướng bồi dưỡng về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm phán.
Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay.
2. Thụ lí vụ án dân sự để xét xử phúc thẩm
>> Xem thêm: Mẫu đơn khởi kiện vụ án ly hôn bản mới nhất năm 2022
Theo Điều 285 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kềm theo, tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lí. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lí vụ án, tòa án phải thông báo bằng văn bản cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và viện kiểm sát cùng cấp về việc tòa án đã thụ lí vụ án và thông báo trên cổng thông tin điện tử của tòa án (nếu có). Chánh án tòa án cấp phúc thẩm thành lập hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công một thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa.
3. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
Theo quy định tại Điều 286 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày thụ lí vụ án, tuỳ từng trường hợp, tòa án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau đây:
a) Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;
b) Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;
c) Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Đổi với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì chánh án tòa án cấp phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không được quá 01 tháng.
Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm; trường hợp cólí do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng.
Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của tòa án có hiệu lực pháp luật.
Các quy định về thời hạn xét xử này không áp dụng đối với vụ án xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn, vụ án có yếu tố nước ngoài.
4. Cung cấp tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
>> Xem thêm: Hiệu lực hồi tố là gì? Khi nào được áp dụng hồi tố trong quá trình giải quyết vụ án?
Đọc thêm: Quyền sử dụng tài sản là gì? Quyền sử dụng tài sản có thể chuyển giao không?
– Chứng cứ trong vụ án dân sự
Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về nguồn chứng cứ:
“Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
2. Vật chứng.
3. Lời khai của đương sự.
4. Lời khai của người làm chứng.
5. Kết luận giám định…..”
– Các đặc tính của chứng cứ
Để xác định được đâu là chứng cứ của vụ việc dân sự cần dựa vào các đặc tính của chứng cứ như sau:
- Tính khách quan: Chứng cứ trước hết phải là những gì có thật tồn tại khách quan
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Trong quá trình tố tụng, những người tiến hành tố tụng bag những người tham gia tố tụng không thể tạo ra chứng cứ theo ý muốn chủ quan của họ mà chỉ có thể thu thập, nghiên cứu đánh giá và sử dụng chúng. Chứng cứ có tính khách quan bởi chứng cứ là cơ sở để nhận thức vụ việc dân sự.
- Tính liên quan: Chứng cứ là những sự kiện thực tế tồn tại khách quan và liên
quan đến vụ, việc mà Tòa án dựa vào đó để giải quyết. Nhờ chứng cứ mà Tòa án có thể công nhận hay phủ nhận được tình tiết, sự kiện này hay tình tiết, sự kiện khác của vụ việc dân sự hoặc đưa ra tin tức về nó.
- Tính hợp pháp: Các sự kiện, tình tiết…để trở thành chứng cứ trong vụ, việc có
giá trị chứng minh cho yêu cầu hay phản đối yêu cầu thì chứng cứ phải được rút ra từ nguồn nhất định do pháp luật quy định và phải được thu thập, bảo quản, củng cố và nghiên cứu, đánh giá theo một thủ tục do luật quy định. Đây là trình tự nhằm bảo đảm giá trị của chứng cứ.
– Cung cấp tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
Điều 287 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, đương sự được quyền bổ sung tài liệu, chứng cứ tài liệu sau: tài liệu, chứng cứ mà tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không cung cấp, giao nộp được vì có lí do chính đáng; tài liệu, chửng cứ mà tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm. Thủ tục giao nộp tài liệu, chứng cứ được thực hiện theo quy định tại Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
– Ý nghĩa nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
>> Xem thêm: Khởi tố vụ án hình sự là gì ? Quy định về nhiệm vụ, ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự
Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh là một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng của BLTTDS. Ngoài ý nghĩa chung là cơ sở để xây dựng và thực hiện các quy phạm pháp luật TTDS thì nguyên tắc này còn có các ý nghĩa riêng sau đây:
Thứ nhất, nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh TTDS đã ghi nhận cả quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự khi Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, là công cụ quan trọng để đương sự dựa vào đó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như chống lại những yêu cầu, đòi hỏi vô lý của người khác đối với mình. Ngoài ra, nguyên tắc này còn quy định trách nhiệm về nghĩa vụ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải giao nộp chứng cứ mà mình đang nắm giữ cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát khi có yêu cầu và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu cung cấp không đúng, không đầy đủ, không kịp thời. Tại Điều 7 BLTTDS quy định “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát các tài liệu, chứng cứ và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp chứng cứ, tài liệu đó…” [21]. Điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn, góp phần làm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, khách quan toàn diện, đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng của các bên.
Đọc thêm: Súc vật là gì? Đặc điểm của súc vật và thú dữ
Thứ hai, bên cạnh việc bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của đương sự, nguyên tắc này còn có ý nghĩa xác định trách nhiệm của Tòa án, trong việc xác minh, thu thập chứng cứ. Điều 94 BLTTDS quy định “Trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn…” [21]. Theo quy định này, thì Tòa án có trách nhiệm thu thập chứng cứ khi đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà việc thu thập chứng cứ không có kết quả và họ có đơn yêu cầu Tòa án thu thập. Tuy nhiên để Tòa án thu thập chứng cứ thì đương sự phải làm đơn trong đó nêu rõ thu thập chứng cứ gì, ai đang nắm giữ. Ngoài ra, đương sự còn phải chứng minh mình đã áp dụng những biện pháp gì để thu thập chứng cứ nhưng không đạt kết quả.
Nguyên tắc còn xác định, khi thu thập chứng cứ, Tòa án chỉ thu thập chứng cứ trong phạm vi yêu cầu của đương sự, không vượt quá yêu cầu này. Ngoài việc đương sự có yêu cầu thì khi thấy cần thiết, Tòa án, Viện kiểm sát có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ cung cấp chứng cứ cho mình.
Thứ ba, nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS là cơ sở để quy định chế tài đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ khi cung cấp không đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát. Chính quy định này đã góp phần làm cho việc thu thập chứng cứ được tiến hành thuận lợi, góp phần giải quyết nhanh chóng vụ việc dân sự. Tại khoản 2 Điều 94 BLTTDS quy định Cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát trong hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp không cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật [21].
Thứ tư, nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS góp phần bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được khách quan, đúng đắn. Hoạt động xét xử có vai trò rất lớn trong việc ổn định trật tự pháp luật, giữ vững kỷ cương phép nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân… Tuy nhiên, hoạt động này chỉ phát huy được tác dụng khi ra bản án công bằng, hợp tình hợp lý, muốn vậy phải có đầy đủ chứng cứ và chứng minh làm rõ các tình tiết của vụ việc dân sự. Do vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu nội dung nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS không chỉ có ý nghĩa quan trọng, thiết thực đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà còn rất cần thiết đối với các đương sự và Luật sư. Bởi đây chính là điều cốt lõi để đương sự bảo vệ được quyền lợi của mình, phản bác yêu cầu vô lý, trái pháp luật của người khác. Đối với Tòa án, việc tìm hiểu, nghiên cứu nguyên tắc này sẽ góp phần giảm thiểu những sai sót trong quá trình thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và như vậy sẽ góp phần tuyên bản án thấu tình, đạt lý, đảm bảo ổn định các quan hệ xã hội.
5. Khái niệm, ý nghĩa của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
5.1. Khái niệm thủ tục TTDS rút gọn
Xét về bản chất thì thủ tục rút gọn là một dạng của thủ tục đặc biệt. Đó là sự giản lược, đơn giản hóa một số khâu trung gian không cần thiết trong quá trình giải quyết vụ án nhằm xử lí nhanh chóng, kịp thời các vụ án nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác.
Từ đây ta có thể đưa ra khái niệm về thủ tục TTDS rút gọn như sau : “thủ tục TTDS rút gọn là một quy trình tố tụng riêng biệt được tòa án áp dụng để giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có nội dung đơn giản, rõ ràng, có giá ngạch thấp hoặc các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn thủ tục này, theo đó trong một thời gian ngắn thẩm phán độc lập tiến hành xem xét và ra phán quyết về vụ án tranh chấp mà không nhất thiết phải tuân theo tuần tự các bước như trong thủ tục thông thường, phán quyết của thẩm phán có hiệu lực ngay và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm”
>> Xem thêm: Mẫu đơn yêu cầu thi hành án dân sự theo mẫu của Bộ tư pháp mới nhất
5.2. Ý nghĩa của thủ tục TTDS rút gọn
Ý nghĩa to lớn của thủ tục TTDS rút gọn nằm ngay trong chính tên gọi của thủ tục này với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có thể tiếp cận công lí một cách nhanh chóng. Việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn có ý nghĩa không chỉ đối với các đương sự, tòa án mà nó còn có ý nghĩa xã hội rộng lớn và sâu sắc.
Thứ nhất, việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn góp phần đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế và là sự hiện thực hóa chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và nhà nước ta.
Thứ hai, việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn sẽ giảm đáng kể các chi phí tố tụng cho đương sự và tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.
Thứ ba, trong thủ tục TTDS rút gọn thời gian để tiến hành tố tụng được rút ngắn đi rất nhiều lần so với thủ tục TTDS thông thường. Do vậy quyền lợi hợp pháp của đương sự sẽ được đảm bảo một cách nhanh chóng kịp thời.
Thứ tư, thủ tục TTDS rút gọn đáp ứng yêu cầu về bảo đảm quyền tiếp cận công lí của công dân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho tòa án có thể giải quyết nhanh chóng vụ án.
Thứ năm, thủ tục TTDS rút gọn góp phần giảm áp lực công việc ho cán bộ ngành tòa án, đặc biệt là đối với thẩm phán khi mà số lượng các vụ án tranh chấp về dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình ngày một gia tăng.
Mọi vướng mắc pháp lý về luật dân sự, tố tụng dân sự về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự, xét xử phúc thẩm cũng như các vấn đề khác liên quan. Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật dân sự, thừa kế trực tuyến.
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự – Công ty luật Minh Khuê
>> Xem thêm: Cơ quan nào có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Tìm hiểu thêm: Tín ngưỡng là gì? Ví dụ về tín ngưỡng