Nội dung chính
- 1 1. Khái niệm phạm tội nhiều lần
- 2 2. Đặc điểm phạm tội nhiều lần
- 3 3. Điểm mới của khái niệm phạm tội nhiều lần trong Bộ luật hình sự
- 4 4. Phân biệt phạm tội nhiều lần và tội liên tục
- 5 5. Phân biệt phạm tội nhiều lần và phạm nhiều tội
- 6 6. Phân biệt phạm tội nhiều lần và phạm tội có tính chất chuyên nghiệp
1. Khái niệm phạm tội nhiều lần
Phạm tội nhiều lần là thực hiện một tội phạm mà trước đó chủ thể đã phạm tội đó ít nhất là một lần và chưa bị xét xử.
Đây là trường hợp một người đã phạm ít nhất hai đạt khác. lần về cùng một tội phạm (cùng một tôi danh) và cả hai lần đó đều chưa bị xét xử. Các lần phạm tội đó có thể có cùng đối tượng hoặc khác đối tượng, có thể thuộc cùng khung hình phạt hoặc thuộc các khung hình phạt khác nhau. Cần phân biệt phạm tội nhiều lần với trường hợp tội liên tục. Trong trường hợp tội liên tục, các hành vị phạm tội được thực hiện chỉ là một phần và đều thuộc một hành vi phạm tội thống nhất. Còn trong trường hợp phạm tội nhiều lần, các hành vi phạm tội và hậu quả của các hành vi đó có tính độc lập với nhau.
Xem thêm: Phạm tội nhiều lần là gì
Phạm tội nhiều lần là tình tiết có thể được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng ở một số tội phạm hoặc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ở các tội còn lại. Trong Bộ luật hình sự năm 1999, phạm tội nhiều lần được quy định tại Điều 48 là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cùng nhóm với tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Bên cạnh đó, tình tiết phạm tội nhiều lần cũng được quy định là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của nhiều tội danh khác nhau như tội hiếp dâm (Điều 111), tội nhận hối lộ (Điều 279)…
2. Đặc điểm phạm tội nhiều lần
– Người phạm tội thực hiện từ hai lần hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Có thể hiểu hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đe dọa xâm phạm hoặc xâm phạm đến những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ.
– Hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mỗi lần thực hiện bao giờ cũng phải có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập. Các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm bao gồm bốn yếu tố: khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan. Đây là một đặc điểm quan trọng để xác định có phải người phạm tội đã thực hiện từ hai lần hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cầm hay không. Nếu hành vi không có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập thì không thể xác định được đó là tình tiết phạm tội nhiều lần.
-Tội phạm do một điều hoặc một khoản của điều tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự quy định. Đây là một đặc điểm đặc trung của tình tiết phạm tội nhiều lần và dùng để phân biệt với tình tiết phạm nhiều tội. Người phạm tội thực hiện từ hai lần hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, mỗi lần thực hiện hành vi có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập và tội phạm đó do cùng một điều hoặc cùng một khoản tương ứng quy định trong Bộ luật hình sự.
– Tội phạm này vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội phải bị đưa ra xét xử cùng một lần. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 27 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Nếu hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa. Do đó, hành vi nói trên không bị tính là một lần phạm tội. Đặc điểm “người phạm tội phải bị da ra xét xử cùng một lần” có nghĩa là các hành vi phạm tội trước đó chưa bị đưa ra xét xử lần nào. Đây là một đặc điểm để phân biệt giữa tinh tiết phạm tội nhiều lần và tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Như vậy, đây là bốn đặc điểm cần và đủ để có thể đánh giá thế nào là phạm tội nhiều lần. Nếu thiếu một trong bốn đặc điểm hay còn gọi là dấu hiệu nói trên thì khó có thể coi đó là tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần.
3. Điểm mới của khái niệm phạm tội nhiều lần trong Bộ luật hình sự
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 không có quy định tình tiết “phạm tội nhiều lần” như theo Bộ luật hình sự cũ mà có quy định “phạm tội 02 lần trở lên” và được xác định là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS (khi không là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt – khoản 2 Điều 52), tình tiết định khung tăng nặng tại 80 điều luật cụ thể ở phần các tội phạm.
Qua so sánh, đối chiếu, nhận thấy phần lớn các điều luật của BLHS 1999 có quy định “phạm tội nhiều lần” là tình tiết định khung tăng nặng vẫn được giữ nguyên trong BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017, tuy nhiên có sự thay đổi thuật ngữ “phạm tội nhiều lần” bằng thuật ngữ “phạm tội 02 lần trở lên” và có sự ghi rõ ràng số lần phạm tội để người đọc có thể dễ dàng hiểu và áp vào quy định của pháp luật.
Đọc thêm: Dịch vụ phi tư vấn là gì?
Việc quy định rõ, cụ thể ngay số lần mà người phạm tội đã thực hiện tội phạm trong điều luật là sự kế thừa hết sức tiến bộ của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Quy định này đảm bảo cho việc nhận thức và áp dụng pháp luật một cách thống nhất, khắc phục được tồn tại có nhiều cách hiểu dẫn đến nhiều cách áp dụng với thuật ngữ nhiều lần trước đây.
4. Phân biệt phạm tội nhiều lần và tội liên tục
Hai tình tiết phạm tội nhiều lần và tội liên tục nếu xét về thuật ngữ “nhiều lần” và thuật ngữ “liên tục” ta thấy chúng dường như là tương đồng nhưng thực ra về bản chất là rất khác nhau. Có thể hiểu tội liên tục là khi tội phạm được hình thành từ một loạt hành vi nguy hiểm cho xã hội giống nhau, mà các hành vi đó có cùng một mục đích chung, được thực hiện với một ý định phạm tội thống nhất, cùng xâm hại đến một khách thể và trong sự tổng hợp của những hành vi đó thì cấu thành một tội độc lập.
Như vậy, tội liên tục cũng là tội được hình thành từ nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, nhưng khác với phạm tội nhiều lần một loạt hành vi nguy hiểm của tội liên tục mới cấu thành nên một tội vì mỗi hành vi chưa đủ các dấu hiệu của một cầu thành tội phạm độc lập, còn với tình tiết phạm tội nhiều lần thì hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mỗi lần thực hiện bao giờ cũng có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập. Mặt khác, xét về hậu quả cũng như thiệt hại cho xã hội do hành vi gây ra thì phạm tội nhiều lần gây ra thiệt hai lớn hơn rất nhiều so với tội liên tục. Về mức độ trách nhiệm hình sự, phạm tội nhiều lần là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hinh sự còn phạm tội liên tục chi để chỉ tội đó do một loạt hành vi cấu thành nên nó chỉ là tinh tiết định tội mà thôi.
5. Phân biệt phạm tội nhiều lần và phạm nhiều tội
Cũng như tình tiết phạm tội nhiều lần, tinh tiết phạm nhiều tội chưa nhận được sự điều chỉnh chính thức bằng một quy phạm riêng biệt nào trong pháp luật hình sự Việt Nam. Thuật ngữ “phạm nhiều tội” chỉ được đề cập đến trong tên gọi của một điều luật “Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội”.
Vì vậy, để phân biệt hai tinh tiết này chúng ta có thể dựa vào các khái niệm, các đặc điểm của nó dưới góc độ khoa học luật hình sự.
Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc tại cùng một khoản của điều tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời đối với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử.
Phạm nhiều tội là phạm tội từ hai lần trở lên hoặc khi hành vi của người phạm tội có dấu hiệu của từ hai tội trở lên mà những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau (hoặc tại các khoản khác nhau của cùng một điều nếu các đối tượng của tội phạm khác nhau) trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội chưa bị xét xử về tội nào trong số những tội ấy.
Từ hai khái niệm nói trên, có thể thấy đặc điểm duy nhất để phân biệt hai tình tiết này là: số lần phạm tội từ hai lần trở lên nhưng ở tình tiết phạm tội nhiều lần thì những tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc một khoản của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, còn ở tình tiết phạm nhiều tội thì những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau (hoặc tại các khoản khác nhau của cùng một điều nếu các đối tượng của tội phạm khác nhau) trong Phần riêng của Bộ luật Hình sự.
6. Phân biệt phạm tội nhiều lần và phạm tội có tính chất chuyên nghiệp
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, phạm tội có tính nghiệp được hiểu là phạm tội nhiều lần, có tính chất liên tục và nhằm mục đích vụ lợi hay làm giàu bất chính mà hoạt động phạm tội đã trở thành hệ thống và tạo nên nguồn thu nhập cơ bản hoặc nguồn sống chủ yếu của người phạm tội.
– Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
Tham khảo thêm: Ngạch dự bị nghĩa vụ quân sự là gì
+ Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích;
+ Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
– Khi áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, cần phân biệt:
+ Đối với trường hợp phạm tội từ năm lần trở lên mà trong đó có lần phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị áp dụng cả ba tình tiết là “phạm toi nhiều lần”, “tái phạm” (hoặc “tái phạm nguy hiểm”) và “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.
+ Đối với tội phạm mà trong điều luật có quy định tinh tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” là tình tiết định khung hình phạt thì không được áp dụng tình tiết đó là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định Điều 52 Bộ luật Hinh sự. Trường hợp điều luật không có quy định tình tiết này là tình tiết định khung hình phạt thì phải áp dụng là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Như vậy, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thể hiện tính nguy hiểm và mang cấp độ cao hơn so với tình tiết phạm tội nhiều lần. Phạm tội nhiều lần chi để chi người phạm tội thực hiện từ hai lần hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Còn đối với phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thì các hành vi phạm tội có tính chất liên tục nghĩa là người phạm tội liên tiếp thực hiện loại tội phạm cùng nhóm trong khoảng thời gian nhất định và ít nhất phải từ năm lần trở lên. Các hành vi phạm tội đã trở thành hoạt động phạm tội có hệ thống và tạo nên nguồn thu nhập cơ bản hoặc nguồn sống chủ yếu của người phạm tội.
Mặt khác, nếu ở tình tiết phạm tội nhiều lần các lần người tội phạm thực hiện hành vi phạm tội chưa bị đưa ra xét xử lần nào thì ở tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp người phạm tội có thể bị đưa ra xét xử ở các lần khác nhau. Bởi vì có thể ngay sau khi được x án tích người phạm tội lại tiếp tục thực hiện một loạt tội phạm cùng nhóm.
Điểm khác nhau cuối cùng là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn ở phạm tội nhiều lần thì các lần phạm tội phải chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, nếu còn vấn đề vướng mắc hoặc băn khoăn về những nội dung trên hoặc các nội dung khác liên quan tới giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án, Quý khách hàng có thể liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.6162 để được giải đáp thêm.
Trân trọng./
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật Minh Khuê
Tham khảo thêm: Kháng cáo là gì? Quy định về kháng cáo, thời hạn kháng cáo?