Nội dung chính
- 1 1. Thế nào là quyền định đoạt tài sản?
- 2 2. Có phải chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản của mình trong mọi trường hợp không?
- 3 3. Quyền định đoạt của chủ sở hữu được quy định như thế nào?
- 4 4. Người không phải chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản không?
- 5 5. Quyền định đoạt tài sản có bị hạn chế không?
1. Thế nào là quyền định đoạt tài sản?
Tại Điều 192 Bộ luật dân sự 2015:
Xem thêm: định đoạt là gì
“Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản.”
Xét dưới góc độ pháp lý thì quyền định đoạt là quyền quan trọng nhất của chủ sở hữu đối với tài sản. Quyền định đoạt được định nghĩa theo hai khía cạnh:
– Định đoạt số phận thực tế của tài sản: Tức là dùng các hành vi tác động đến tài sản khiến cho chúng không còn tồn tại trên thực tế. Ví dụ Chủ sở hữu tiêu dùng hết các tài sản có tính tiêu hao như: ăn uống các đồ lương thực, thực phẩm; dùng hết các đồ mỹ phẩm, dược phẩm… Hoặc chủ sở hữu có thể tiêu hủy tài sản khiến chúng biến mất như đốt tài sản, chặt phá chúng khiến cho tài sản không thể sử dụng được theo đúng tính năng, công dụng của mình;
– Định đoạt số phận pháp lý của tài sản thông qua hai hình thức: chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho chủ thể khác bằng việc xác lập các hợp đồng như bán, tặng cho, trao đổi tài sản cho người khác. Đây là những hợp đồng mà chuyển giao đồng thời cả ba quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt cho người khác một cách vĩnh viễn; Theo Quy định tại Điều 238 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“Khi chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác thông qua hợp đồng mua bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật hoặc thông qua việc để thừa kế thì quyền sở hữu đối với tài sản của người đó chấm dứt kể từ thời điểm phát sinh quyền sở hữu của người được chuyển giao.”
Từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản cũng là một hình thức định đoạt số phận pháp lý của tài sản. tại Điều 239 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:
Chủ sở hữu có thể tự chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản của mình bằng cách tuyên bố công khai hoặc thực hiện hành vi chứng tỏ việc mình từ bỏ quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản đó.
Đối với tài sản mà việc từ bỏ tài sản đó có thể gây hại đến trật tự, an toàn xã hội, ô nhiễm môi trường thì việc từ bỏ quyền sở hữu phải tuân theo quy định của pháp luật.
Từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản cũng là một loại giao dịch dân sự – hành vi pháp lý đơn phương. Do vậy, việc từ bỏ quyền sở hữu tài sản chỉ có giá trị khi đáp ứng được các điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015: Điều kiện về chủ thể, mục đích, nội dung, ý chí, hình thức. Nếu một người bị bệnh tâm thần tuyên bố từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với chiếc xe máy thì việc từ bỏ đó cũng không có giá trị. Hoặc chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản khi tài sản đó là nguồn gây ô nhiễm, độc hại cho môi trường, xã hội thì cũng không được phép….
2. Có phải chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản của mình trong mọi trường hợp không?
Không phải trong mọi trường hợp chủ sở hữu đều có quyền định đoạt tài sản của mình. Để thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản thì phái đáp ứng một số điều kiện được quy định tại Điều 193 Bộ luật dân sự 2015:
Điều 193. Điều kiện thực hiện quyền định đoạt
Việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện không trái quy định của pháp luật.
Trường hợp pháp luật có quy định trình tự, thủ tục định đoạt tài sản thì phải tuân theo trình tự, thủ tục đó.
Điều luật trên quy định về điều kiện của việc thực hiện quyền định đoạt, đó là điều kiện về chủ thể (phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện), nội dung định đoạt (không trái quy định của pháp luật), về trình tự, thủ tục (phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục nếu pháp luật có quy định).
– Về chủ thể: Việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thực hiện.
+ Trường hợp phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật: Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
+ Trường hợp chủ thể tự mình xác lập thực hiện giao dịch: Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Đọc thêm: Cố ý gây thương tích là gì ? Quy định về tội cố ý gây thương tích theo luật hình sự
+ Trường hợp phải do người đại diện, người giám hộ xác lập, thực hiện thay: Những giao dịch của người dưới 6 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
– Về nội dung định đoạt: “không trái quy định của pháp luật”, theo điểm c khoản 1 Điều 117 của Bộ luật dân sự có quy định: “Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”. Các hành vi định đoạt đối với tài sản của chủ sở hữu cũng phải tuân thủ các điều kiện chung của giao dịch, tức là phải tuân theo Điều 117 Bộ luật dân sự.
– Về trình tự, thủ tục định đoạt: phải tuân theo quy định của pháp luật.Theo quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật dân sự thì đặt ra yêu cầu về hình thức của giao dịch dân sự. Những trình tự, thủ tục trong định đoạt tài sản mà pháp luật có quy định như: hợp đồng phải ký trước công chứng viên, có dấu của công chứng, phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tiến hành thủ tục trước bạ sang tên… Nếu chủ sở định đoạt đối với những tài sản là quyền sử dụng đất, nhà ở mà không tuân thủ những trình tự, thủ tục luật thì việc định đoạt đó sẽ không có giá trị.
Ví dụ: Tại khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 quy định về quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất:
“3. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau:
a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này;
b) Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của các bên;
c) Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự;
d) Việc công chứng thực hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng, việc chứng thực thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã.”
3. Quyền định đoạt của chủ sở hữu được quy định như thế nào?
Quyền định đoạt tài sản là một trong ba quyền năng của mà chủ thể sở hữu tài sản có. Khi là chủ sở hữu tài sản thì chủ thể có quyền định đoạt tài sản.
Theo Điều 194 Bộ luật dân sự 2015 có quy định như sau:
Điều 194. Quyền định đoạt của chủ sở hữu
Chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu hủy hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản.
Điều luật trên đã liệt kê những hành vi mà chủ thể hữu có thể thực hiện để định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình, các loại hành vi này có mục đích chuyển quyền sở hữu đổi với tài sản gồm:
– Chủ sở hữu xác hợp đồng như: bán, trao đổi, tặng cho, cho vay;
– Chủ sở hữu thực hiện hành vi pháp lý đơn phương định đoạt tài sản như để thừa kế thông qua lập di chúc; từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản.
Bên cạnh đó, chủ sở hữu còn có thể thực hiện các hành vi định đoạt bản thể vật chất của tài sản như tiêu dùng hay tiêu hủy tài sản.
4. Người không phải chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản không?
Quyền định đoạt tài sản thuộc về chủ sở hữu tài sản. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp không phải chủ sở hữu những vẫn có quyền định đoạt tài sản.
Điều 195 Bộ luật dân sự 2015 có quy định như sau:
Điều 195. Quyền định đoạt của người không phải là chủ sở hữu
Đọc thêm: Thực thi công vụ là gì
Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của luật.
Như vậy, khi một chủ thể không phải chủ sở hữu nhưng lại có quyền định đoạt đối với tài sản khi có căn cứ:
– Theo sự ủy quyền định đoạt của chủ sở hữu.
– Theo quy định của pháp luật.
Đối với căn cứ thứ nhất, người được ủy quyền nhân danh chủ sở hữu để xác lập các hợp đồng bán, tặng cho, trao đổi, cho vay vì lợi ích của chủ sở hữu. Theo quy định của Điều 55 Luật công chứng 2014 có quy định “Khi công chứng các hợp đồng ủy quyền, công chứng viên có trách nhiệm kiểm tra kỹ hồ sơ, giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của các bên và hậu quả pháp lý của việc ủy quyền đó cho các bên tham gia.”
Đối với căn cứ thứ hai: Những người không phải chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản theo quy định của pháp luật. Đó là các trường hợp: cơ quan thi hành án có quyền ký hợp đồng thuê bán đấu giá tài sản; các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý những tài sản vi phạm quy định của pháp luật để sung công quỹ; bên giữ tài sản có quyền bán tài sản nếu những tài sản đó có nguy cơ hư hỏng, mất giá trị nếu không được xử lý ngay…
5. Quyền định đoạt tài sản có bị hạn chế không?
Điều 196 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:
Điều 196. Hạn chế quyền định đoạt
1. Quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do luật quy định.
2. Khi tài sản đem bán là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua.
Trường hợp cá nhân, pháp nhân có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể đó.
Điều luật này chỉ ra nguyên tắc định đoạt đối với tài sản, đó là chủ thể có toàn quyền định đoạt tài sản theo ý mình (như chọn người nhận chuyển giao quyền sở hữu, cách thức định đoạt…) và quyền này chỉ bị hạn chế trong trường hợp luật quy định. Để cụ thể hóa thì điều luật quy định hai trường hợp mà chủ thể phải dành ưu tiên mua cho những chủ thể này:
– Nhà nước có quyền ưu tiên mua khi tài sản định đoạt là di tích, lịch sử văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa;
– Các trường hợp khác mà chủ thể có quyền ưu tiên mua theo quy định của pháp luật như: Ví dụ Khoản 3 Điều 218 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định:
Trường hợp một chủ sở hữu chung theo phần bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua.
Trong thời hạn 03 tháng đối với tài sản chung là bất động sản, 01 tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác. Việc thông báo phải được thể hiện bằng văn bản và các điều kiện bán cho chủ sở hữu chung khác phải giống như điều kiện bán cho người không phải là chủ sở hữu chung.
Trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Tòa án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.
Tương tự, Điều 126 của Luật nhà ở năm 2014 cũng quy định về quyền ưu tiên mua của các đồng sở hữu chung khi bán nhà thuộc sở hữu chung. Khoản 1 Điều 127 của Luật nhà ở năm 2014 cũng quy định về quyền ưu tiên mua của bên đang thuê nhà.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua Email : Tư vấn pháp luật qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.
Trân trọng./.
Đọc thêm: Người nước ngoài là gì ? Quy định pháp luật về người nước ngoài