logo-dich-vu-luattq

Bảo hiểm thất nghiệp có được cộng dồn không

Người lao động đến làm thủ tục bảo hiểm thất nghiệp tại Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội. (Nguồn: TTXVN ).

Theo Điều 45 Luật Việc làm số 38/2013/QH13 ngày 16 tháng 11 năm 2013, căn cứ xét hưởng bảo hiểm thất nghiệp là tổng các khoảng thời gian đã đóng bảo hiểm thất nghiệp liên tục hoặc không liên tục được cộng dồn từ khi bắt đầu đóng bảo hiểm thất nghiệp cho đến khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật mà chưa hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Xem thêm: Bảo hiểm thất nghiệp có được cộng dồn không

Trong trường hợp người lao động đã hưởng trợ cấp thất nghiệp thì thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp trước đó của người lao động không được tính để hưởng trợ cấp thất nghiệp cho lần tiếp theo.

Thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp cho lần hưởng bảo hiểm thất nghiệp tiếp theo được tính lại từ đầu, trừ trường hợp chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định tại các điểm b, c, h, l, m và n khoản 3 Điều 53 của Luật Việc làm 2013.

Đọc thêm: Chồng đóng bảo hiểm vợ có được hưởng thai sản

Như vậy, thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp sẽ được cộng dồn kể từ thời gian người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp cho đến khi chấm dứt hợp đồng lao động.

Bên cạnh đó, theo điều 18, mục 3, chương IV, Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 03 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về Bảo hiểm thất nghiệp (sửa đổi, bổ sung khoản 3, điều 18 tại Nghị định số 61/2020/NĐ-CP ngày 29 tháng 5 năm 2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 03 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về Bảo hiểm thất nghiệp) có quy định:

Trong trường hợp người lao động có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp, đã nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp:

– Sau thời hạn 03 tháng kể từ ngày người lao động hết thời hạn hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp nhưng người lao động không đến nhận tiền trợ cấp thất nghiệp và không thông báo bằng văn bản với tổ chức bảo hiểm xã hội nơi đang hưởng trợ cấp thất nghiệp thì người lao động đó được xác định là không có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Tham khảo thêm: Giấy ủy quyền lấy sổ bảo hiểm

– Thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp tương ứng với số tiền trợ cấp thất nghiệp mà người lao động không đến nhận được bảo lưu làm căn cứ để tính thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp cho lần hưởng trợ cấp thất nghiệp tiếp theo khi đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định.

– Trong thời hạn 07 ngày làm việc sau thời hạn nêu trên, tổ chức bảo hiểm xã hội phải thông báo bằng văn bản với trung tâm dịch vụ việc làm nơi người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp về việc người lao động không đến nhận tiền trợ cấp thất nghiệp.

– Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo của tổ chức bảo hiểm xã hội, trung tâm dịch vụ việc làm có trách nhiệm xem xét, trình Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội quyết định về việc bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.

Có thể thấy, trong trường hợp người lao động chưa có nhu cầu hưởng bảo hiểm thất nghiệp thì theo quy định, thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp của người lao động sẽ được cộng dồn cho lần hưởng tiếp theo khi người lao động đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp./.

Đọc thêm: Quy định về sổ bảo hiểm

quantri

quantri

Bài viết mới

Nhận tin mới nhất từ chúng tôi !